điểm. Chúng bao gồm quyết định có đưa vấn đề lên các cấp có
thẩm quyền cao hơn trong tổ chức hay không, ở lại hay rời khỏi tổ
chức, làm thế nào để đóng khung các cuộc đối thoại và hành động
xung quanh các quá trình ra quyết định này, và làm thế nào để tự
chủ trong khi đối mặt với các hậu quả tiềm tàng.
Cái giá đánh đổi có thể là rất cao đối với cá nhân phải đối mặt
với những lựa chọn đạo đức này, vì chúng thường liên quan đến nguy
cơ rời bỏ tổ chức hoặc bị tổ chức ép buộc phải ra đi.
Mặc dù chúng ta hiếm khi thấy mình đứng giữa những lựa chọn
quan trọng như thế, nhưng nếu lâm vào các tình huống đó, thì
điều tối quan trọng là chúng ta phải đưa ra các quyết định dựa
trên nền tảng đạo đức. Cá nhân tôi biết việc này khó khăn như thế
nào. Trong những năm ở giữa độ tuổi ba mươi, tôi thấy rằng tôi đã
cống hiến một phần quan trọng trong cuộc đời trưởng thành của
mình cho một tổ chức và nhà lãnh đạo của nó, nhưng cả hai đều ngày
càng mâu thuẫn với các giá trị và tầm nhìn của tôi. Ban đầu, tôi
không nhận ra được sự khó chịu của mình với những hành động của
nhà lãnh đạo. Sự xung đột mà tôi cảm nhận được biểu hiện thành
những lần đổ bệnh do căng thẳng. Chỉ đến khi bắt đầu không
được chấp thuận cho tham gia vào một nỗ lực cải cách nội bộ, tôi mới
đối mặt với thực tế là đã đến lúc mình phải ra đi.
Nhưng với một số người cùng thời với tôi trong tổ chức đó, ra đi
là chưa đủ. Họ cảm thấy quan trọng là phải công khai chống lại
cách thức hoạt động của tổ chức đó. Tuy nhiên, một số người khác,
những người cũng không thoải mái với cách hoạt động đó, lại cảm
thấy có trách nhiệm phải ở lại với tổ chức và cố gắng làm tác nhân
để thay đổi nó từ bên trong. Đây là quyết định mang tính cá nhân.
Không nhất thiết phải có một mệnh lệnh đạo đức để giúp chúng ta
lựa chọn một con đường. Quan trọng là chúng ta phải đưa ra quyết
định một cách có ý thức.