tuổi năm mươi, nay nhuốm vẻ phong trần, đôi má thêm nét nhăn và đôi mắt
quầng thâm. Chòm râu đen dài như râu Quan Công mà ông thường nhẹ
vuốt những khi tâm hồn thư thái, nay đã điểm nhiều sợi bạc. Hình như ông
cảm thấy nó vướng víu khi phải vạch lá cây, dây leo, qua rừng rậm đầy
muỗi vắt... Quang Hoan nhớ khi mình còn ở quê nhà, đã nghe dân làng
truyền tụng về Quang Bích. Một người học giỏi, thiên tư dĩnh ngộ, thông
suốt Tứ thư ngũ kinh, lại hiểu binh thư binh pháp. Thi Hương đỗ Giải
nguyên dẫn đầu khoa, ông có thể được bổ một chức quan xứng với tài
năng. Nhưng gặp lúc thân phụ qua đời, ông xin về quê cư tang, dạy học. Lo
việc chung là một đức tính mà ông có từ ngày ấy. Đồng làng Trình Phố của
ông thường chiêm khô, mùa úng, thu hoạch bấp bênh, dân thôn nghèo túng.
Ông bàn với các chức dịch trong làng xây cống Tam Đồng, xẻ sông lấy
nước tưới khô và tiêu úng, làm cho chiêm mùa đều tốt. Thấy trẻ nhỏ ít được
học hành, người lớn thiếu tôn sư trọng đạo, ông gióng dựng cho xã thôn mở
trường dạy học và xây văn chỉ. Ông góp ý cho từng nét hoa văn trang trí
đến các câu đối, đại tự. Ông đỗ đạt cao, ra đình làng được ngồi chiếu nhất.
Nhưng chính ông sửa lại hương ước: đặt lên chiếu nhất là các vị thượng
thọ, cao niên, dẫu là dân thường. Điều này các chức dịch không ưng nhưng
dân làng tán thưởng. Sau đó, ông đi xa làm quan, được dân tôn là Phật
sống, được vua khen là thanh quan... Nay thời thế đảo điên, khiến ông trở
thành người đôi vai nặng gánh non sông, xông pha nơi rừng sâu núi hiểm.
Quang Bích cũng như Quang Hoan, mỗi người lặng lẽ hồi tưởng về
một chuyện. Đến lúc con thuyền được người nghĩa quân cho ghé mũi vào
bến, hai ông mới nhẹ bước lên bờ.