chày gạo, cối thóc, chăm bón vườn rau, nuôi con lợn, đàn gà. Cậu và các
em không có trường học do loạn lạc, bảo nhau tự học ở nhà...
Hỏi con nhiều chuyện nhà cửa, xóm làng, rồi ông chuyển sang chuyện
khác:
- Giặc có đóng đồn ở huyện ta không?
Nghe con nói Tây đóng đồn từ huyện Tiền Hải lên Kiến Xương và bến
sông Bo, ông không muốn hỏi thêm. Ông đã quen nghe nơi này nơi kia bị
giặc chiếm, vậy mà nghe giặc chiếm quê mình, ông vẫn bàng hoàng, nhức
nhối.
Đêm xuống, người con mệt mỏi ngủ say, người cha vẫn nằm thao
thức. Ông yên tâm vì cảnh nhà dẫu nghèo, nhưng vợ ông vẫn tần tảo nuôi
con, thay chồng đi làm việc nước, hẳn rằng bà lo cho ông, hết Tây vây lại
ngụy đuổi, rồi đây chẳng biết ra sao?
Gần sáng, người con tỉnh giấc, ông hỏi trong vùng có ai đứng lên đánh
Tây. Biết không hết, nhưng người con cũng kể được những thủ lĩnh nghĩa
quân nổi tiếng. Bên đây sông Trà Lý có các ông Viên Bổn, Cả Cương, Lãnh
Bôn, Hiệp Vỡi. Bên kia sông, có bốn cha con ông Đề Hiện, năm cha con
ông Lãnh Thà cùng đi đánh Pháp. Cụ Ngự sử Phạm Huy Quang bị Tây bắt
ghép án tử hình...
Nghe con kể hàng chục thủ lĩnh quê vùng Trà Lý đánh giặc, ông càng
thêm băn khoăn về trọng trách của mình: người thống lĩnh không nắm được
tình hình, không hiểu hết tướng sĩ. Khi gà gáy dồn, trời đã rạng, ông nói
với con điều tâm huyết:
- Nay cha được vua giao công việc nặng nề. Cha không thể về thăm
bà, thăm gia đình, họ mạc. Con phải chăm chỉ học tập để sau này nên người
hữu ích. Mẹ con phải thay cha nuôi dưỡng bà, khuyên bảo các con. Từ nay
con không phải đi lại thăm cha, vì đường sá xa xôi cách trở. Cha đã nguyện