tỉnh thành đã mất. Lại cần phòng thủ các tỉnh Thanh, Nghệ, không cho giặc
từ xứ Bắc vào phía kinh đô. Giữ được Thanh, Nghệ là tạo thế gọng kìm,
cùng các tỉnh trung du, thượng du kẹp vào Hà Nội, Nam Định.
Bùi Ân Niên tâu:
- Thần thấy lời xin của Thận Duật là có suy nghĩ cẩn thận. Không
những ta cần phòng thủ mấy vùng đất rộng dân đông, hoặc có núi cao rừng
rậm để giặc khỏi lan tràn, mà còn phải đánh giặc để tạo thế giữ cả Bắc Kỳ
và Trung Kỳ. Lúc này nhân tâm, sĩ khí đều căm giận, nếu triều đình không
tính ngay đến việc đánh giặc thì lỡ thời cơ.
Trần Tiễn Thành tỏ ra chín chắn hơn:
- Tâu bệ hạ, binh pháp có câu: biết người biết ta, trăm đánh trăm
thắng. Nay đối phó với tình hình Bắc Kỳ, phải cân nhắc kỹ về sức ta, sức
địch. Trước đây, triều đình ta luôn phải cân nhắc về đánh hay đàm khi có sự
biến ở Nam Kỳ. Việc quá khứ cho thấy chỉ có đánh thì chưa chắc đã thắng,
do ta quá kém về vũ khí. Vì vậy có thể đàm để cầu hòa, tuy có phải nhượng
bộ.
Vua Tự Đức tựa lưng vào thành ngai, mắt lim dim suy nghĩ về lời tâu
của mấy viên đại thần. Đã mấy lần vua nghe các quan bàn phương sách đối
phó với Pháp, lần nào cũng nhức óc đau đầu và bế tắc. Người Pháp đem
quân đến đây đã mười lăm năm, cũng là mười lăm năm vua ngồi trên lửa
nóng. Từ năm Mậu Ngọ (1858) tàu Pháp đánh bán đảo Sơn Trà, đến năm
Nhâm Tuất (1862) ta phải ký điều ước nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
cho Pháp. Sau khi ký ước, họ vẫn liên tục gây sự, tuyên bố chiếm cả ba tỉnh
miền Tây. Điều này ta còn chưa chịu, thì họ lại gây sự ở Bắc Kỳ... Vua bộc
lộ nỗi lo âu:
Ng-u-ồn:- ir-ead.vn