“Patrick đồ rằng bà Darnley chết không phải do tự tử”
Tôi rùng mình khi nghĩ tới những hệ lụy tiếp theo của khả năng này.
“Theo anh ta, bà ấy bị sát hại.”
“Nhưng điều đó thật vô lý” Tôi kêu lên.
“Có lẽ là vô lí, như cháu nói. Nhưng thử tưởng tượng một tên sát nhân đủ
thông minh để nghĩ ra cách chốt cửa từ bên trong. Mọi điểm liên quan đến
cái chết của bà Darnley đều chỉ ra một vụ giết người, nhưng cánh cửa chốt
trong lại phá hủy giả thuyết đó. Cánh bị chốt bên trong! Nhưng nếu có kẻ
khéo léo…”
“Khéo léo thế nào chứ? Điều đó là không thể!”
“Bác không biết. Bác từng đọc một quyển sách đề cập đến vấn đề này.
Giải pháp là kẻ sát nhân luồn một vòng dây qua lỗ khóa sao cho ràng được
núm chốt cửa. Mấu chốt ở chổ phải khéo léo găm một chiếc ghim vào khung
cửa dễ tạo thành ròng rọc. Đầu tiên, hắn ta giật vòng dây để chốt cánh cửa.
Sau đó, buông một đầu sợi dây và kéo đầu còn lại. Đương nhiên, chiếc ghim
phải được gắn vào hai dây bằng một sợi chỉ. Chỉ cần giật một cái dứt khoát
là xong xuôi mọi thứ. Không một dấu vết nào sót lại ngoại trừ một lỗ bé xíu
trên khung cửa.”
“Thật tài tình,” tôi thán phục.
“Rất tài tình. Nhưng bác cũng nghĩ tới một phương án khác, khó hơn rất
nhiều. Tuy vậy, bác thấy vẫn khả thi: ném một quả bóng cao su cứng vào
bên trong khi đóng cửa, và khi nó bật trở lại - sau nhát đập vào tường - sẽ va
trúng cái chốt, đẩy chốt trượt vào đúng chỗ.”
Giả thuyết này làm tôi lạnh hết sống lưng.
Arthur nhìn tôi, cười chế giễu.
“Cháu tưởng bác nghĩ đến Henry? Không, tin bác đi, con trai bác sẽ
không làm tổn thương ngay cả một con ruồi. Hơn nữa, bấy giờ thằng bé mới
chỉ có mười tuổi.”
Ba năm trôi qua mà không có dấu hiệu nào về sự tồn tại của Henry,
Arthur vẫn tin chắc cậu còn sống. Bằng mọi cách có thể, ông tránh nói về
con trai, nhưng một khi nhắc đến thì ông luôn nói ở thì hiện tại, như thể
Henry vẫn đang sống cùng ông dưới một mái nhà.