chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những
bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất
mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm
xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra
giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống,
nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao
tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4
nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen
ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang
tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất
phơ phất …
Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã
đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên
người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu.
Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt
như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi
ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…
Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con
sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe
chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc
vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói
chi…”
Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống
nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít
ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn.
Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…