Cái sạp tre nhỏ bé vừa là giường ngủ, vừa là chỗ bếp núc, chỗ chơi đùa của
đứa con, là tất cả mọi sinh hoạt trong gia đình chị.
Bới tóc xong, chị vén mùng, bật hộp quẹt đốt đèn. Cái đèn
trứng vịt, ngọn đèn nhỏ hột đậu, tỏa một ánh sáng nhỏ, đủ cho chị làm việc.
Sáu Xoa, một người đàn bà trẻ, khỏe và đẹp.
Ngoài trời gió vẫn thổi. Gió lao xao qua tàn lá trên mái nhà.
Sóng vẫn ràn rạt dưới sàn, và đâu đó một con cá quẫy một con đớp mồi.
Những vòng sóng trên mặt nước bung rộng ra dưới ánh sao.
Cử chỉ nhẹ nhàng, sợ động đến giấc ngủ của chồng, con, Sáu
Xoa chuẩn bị những việc cần thiết cho chuyến đi của chồng. Chị xé nửa
bánh thuốc, lấy một cuộn giấy quyến, cái hộp quẹt đá cho vào cái túi ni
lông, lấy sợi dây thun buộc cẩn thận. Xong, chị lựa từng con khô sặc để vào
chiếc cà rò
Vừa lúc đó, có tiếng chim kêu. Tiếng chim đêm nghe khác
thường. Sáu Xoa quay vào, gọi khẽ:
- Mình ơi, mình!
Anh Đô chồng chị, đã thức, anh tằng hắng, rồi với một động
tác - không ngái ngủ, anh co hai chân, đưa hai tay ôm vòng qua hai gối,
như có lò xo, anh bật dậy. Anh vén mùng - cái mùng bằng vải dù trái sáng
nhuộm màu xanh lam nham - ngồi gần bên vợ. Anh Đô - chồng chị - nông
dân Tháp Mười, một người đàn ông khỏe mạnh, ba mươi tuổi, màu da đậm
đà. Có lẽ vì ở giữa cánh đồng nước, không có người cắt tóc nên mái tóc của
anh bù xù, hơi dài, tóc đâm đến vành tai, râu lún phún. Mày rậm, mắt to và
sáng rực. Mũi cũng to và tròn, người ta gọi là mũi lân và môi dày. Dù mặc
áo bà ba, nhưng cũng có thể biết: bắp tay anh cuồn cuộn và lồng ngực anh
căng phồng.
Không nói không rằng, anh thò chân xuống sàn, đặt bàn chân
lên lái xuồng, đẩy chiếc xuồng ba lá ra khỏi sàn Anh bước xuống. Với sức
mạnh của anh, mũi xuồng hất lên. Anh cầm cây sào, rà xuống nước, cho
mũi xuồng quay ra, nhún mình, chống sào, chiếc xuồng vút đi như con thoi.
Một lát sau, anh quay lại, cho xuồng cặp lại sàn nhà, cầm cái
rọ giơ lên, cái rọ đầy cá sặc, anh mở hom trút cá vào cái khạp da bò để bên