bếp. Cái rọ thứ hai cũng đầy cá. Sáu Xoa nhìn từng cử chỉ của chồng.
- Mình để em! Đi đi, anh em người ta chờ.
Nói xong, chị bưng cà ròn khô cá sặc để xuống xuồng, đưa gói
thuốc cho chồng, rồi cầm chai nước mắm, rót vào chén, đưa tận tay anh
- Mình uống chén nước mắm, cho đỡ lạnh.
Anh Đô đưa tay bưng chén, đưa lên miệng uống ừng ực, Sáu
Xoa nhìn chồng với đôi mắt âu yếm. Uống xong, anh ngồi xuống lái, cầm
chén khoát khoát nước để rửa chén, múc nước súc miệng. Xong, anh đặt
chén lên sàn nhà, cầm cây sào, chống sào xuống nước, nói mà không nhìn
vợ:
- Mới có đầu tháng chín mà nước đã lên đến một sải rồi!
- Hai đêm nữa thì nước liếm tới lưng rồi. - Sáu Xoa nói.
- Mai phải lên nhà! - Nói vậy rồi anh rùn mình, chống sào.
Chiếc xuồng băng đi.
Anh vừa chống xuồng và nhìn bầu trời mông mênh lấm tấm
sao. Tiếng pháo từ căn cứ Bình Đức vẫn nổ vu vơ trên cánh đồng. Tiếng
pháo nổ trong đêm vắng và trên đồng nước, tiếng pháo rền và vang xa.
Chiếc xuồng của anh ra khỏi vạt tràm. Cái vạt tràm có ngôi nhà
của anh là vạt tràm nhỏ, lưa thưa trên cánh đồng. Còn cái vạt tràm dày đặc
là một cụm rừng già ở trước mặt anh, những cây tràm cao, lá dày đặc. Ở xa
nhìn như một bóng đen khổng lồ nổi trên mặt nước.
Nếu ngôi nhà của anh nằm giữa cụm rừng tràm dày đặc ấy, sẽ
kín đáo hơn. Nhưng vốn có nhiều kinh nghiệm với chiến trường, chính cái
nơi kín đáo ấy là mục tiêu của trực thăng, của phản lực, của pháo… Vợ
chồng anh đã chọn một cái thế bất ngờ để dựng nhà
Chiếc xuồng anh lao đi trên mặt nước dưới đêm sao, mũi
xuồng rẽ sóng nghe ràn rạt đều đều.
Nghe tiếng chim, anh làm tiếng chim đáp lại.
Anh cho xuồng cặp lại mí rừng, đi về hướng tiếng chim. Anh
cho xuồng băng lại cây tràm đứng lẻ loi trên mặt nước. Cây tràm lẻ loi ấy
được gọi là trạm, là nơi giao khách của đường dây giao liên của khu về
chiến trường Mỹ Tho. Dưới bóng cây tràm ấy đã có một anh giao liên với