thuyết khác nhau dựa trên sự tương quan, xem các công ty mới thành lập và
các công ty lâu năm bị ảnh hưởng bởi thay đổi như thế nào, và mỗi cách
tương ứng với một sự cải thiện trong khả năng dự đoán so với kế hoạch
phân loại trước đó. Ở giai đoạn này của quá trình, hiếm khi có một giả
thuyết được nhất trí là tốt nhất vì hiện tượng có quá nhiều thuộc tính. Các
học giả của quá trình này đã quan sát thấy rằng sự hỗn loạn này là một giai
đoạn quan trọng nhưng không tránh khỏi khi xây dựng giả thuyết. Xem
Thomas Kuhn, The Structure of Scientific Revolutions (Chicago:
University of Chicago Press, 1962). Kuhn ghi chép đầy đủ nỗ lực của
những người ủng hộ các giả thuyết đối đầu khác ở giai đoạn này trước khi
tiến tới một mô hình. Thêm vào đó, một trong những cuốn sách có ảnh
hưởng lớn nhất về nghiên cứu quản trị và khoa học xã hội đã được Barney
G. Glaser và Anselm L. Strauss viết nên (The Discovery of Grounded
Theory: Strategies of Qualitative Research [London: Wiedenfeld and
Nicholson, 1967]). Dù họ đặt tên cho khái niệm mấu chốt của mình là “giả
thuyết vững chắc” nhưng cuốn sách thực ra được viết về phân loại, vì quá
trình này là trọng tâm để xây dựng giả thuyết đúng đắn. Thuật ngữ “giả
thuyết độc lập” của họ cũng giống như thuật ngữ “nhóm loại dựa vào thuộc
tính” của chúng tôi. Họ mô tả cách một nhóm các nhà nghiên cứu cuối
cùng đã thành công trong việc biến hiểu biết của mình thành “giả thuyết
chính thức” mà chúng tôi gọi là “nhóm loại dựa vào tình huống”.
22. Clayton M. Christensen, The Innovator’s Dilemma: When New
Technologies Cause Great Firms to Fail (Boston: Harvard Business School
Press, 1997).
23. Các nhà quản lý cần biết liệu một giả thuyết có áp dụng được cho
trường hợp của họ hay không, liệu họ có nên tin nó không. Một cuốn sách
rất hữu ích về vấn đề này là Case Study Research: Design and Methods
(Beverly Hills, CA: Sage Publications, 1984) của Robert K. Yin. Từ khái
niệm của Yin, chúng tôi kết luận rằng tính ứng dụng của một giả thuyết (mà
Yin gọi là giá trị ngoài) được thiết lập bởi kế hoạch phân loại hợp lý của nó.
Không còn cách nào khác để đánh giá xem giả thuyết áp dụng hay không
áp dụng được ở đâu. Để lý giải, hãy xem xét mô hình cải cách đột phá được