rỗi, anh ghé qua...". Cô ta vẫn ngồi im. T. chạy vượt cái xích lô đang lững
thững lăn vào bóng tối, cố thở lại bầu không khí quen thuộc. Tôi có thể tìm
cho cô ta chỗ làm tuyệt diệu. Nhưng sự lạc lõng của cô ấy thì nguy hiểm và
nặng nề.
T. bỏ qua Lê Thái Vinh. Cuộc sống trở nên giản dị, nhẹ nhõm. Vài buổi
chiều T. uống bia với bạn hay ngồi bar nghe trumpet cùng cô gái khác,
dường như Vinh đã ngang qua tuyến xe bus cuối ngày trống hoác, gương
mặt trông nghiêng ủ dột. Dụi mắt, ảo giác tan đi. Thứ hai tuần trước, tức
cách đây 12 ngày, T. thấy Vinh qua cửa sổ văn phòng. Cô chờ anh suốt
chiều (anh khai rành mạch với điều tra viên). Cô lại đi đôi giày vẹt gót, mớ
tóc bay phần phật. Anh không xuống gặp. Cô đến buồng bảo vệ, nhờ
chuyển T. mẩu giấy. Thư viết: "Anh đi chơi núi với tôi không? Cách thành
phố 200 cây, sau vệt rừng nhiệt đới ẩm ướt có núi. Giá được xuyên rừng mà
nghe sự im lặng của núi một lần". Phần giấy bỏ trắng dường như bôi đầy
nỗi buồn rầu, sự mong chờ khắc khoải. T. bận họp quên hồi âm sẽ không đi.
Tờ giấy ấy giờ bỏ đâu chẳng thể nhớ.
Ngày 16 tháng 9 năm 19.., điều tra viên đến trung tâm sinh vật biển,
chính thức xác nhận sự mất tích của cô Lê Thái Vinh. Ông Ly phờ phạc hỏi
một câu bâng quơ: "Sao anh cứ mặc cái áo màu nâu này thế?". Người điều
tra mở to đôi mắt lông mi bạc phếch: "Công việc của tôi thật đáng sợ và
buồn". Trưởng phòng ngoảnh nhìn bãi đất trống âm u.