khuya xe không có, thầy tôi xóc cánh tay mẹ tôi qua mấy con đường mới
đến Nhà thương.
Than ôi, lần ra đi là lần mẹ tôi vĩnh biệt cuộc đời, cuộc đời chỉ có một
người chồng, một đứa con và mấy nia tầm.
Mẹ tôi đã kiệt sức chết trên bàn đẻ, đứa con còn nằm trong bụng chưa ra.
Mẹ tôi không được gặp con khi tắt thở, cũng không được thấy chồng, vì lúc
ấy thầy tôi chạy lên núi, vào Nhà thương Tây gọi viên đốc tờ người Pháp.
Ông ta không xuống, còn mắc ngủ và ngại rét. Tôi nhớ tôi đang trùm kín
chăn bởi sợ ma - cái đất này, ông Bồng bảo có nhiều cốt lắm, đó là bãi
chiến trường ngày xưa - thì thày tôi về khẽ kéo chăn ra và run giọng bảo:
“Mẹ con đi rồi”! Giá lúc khác thì tôi không hiểu chữ “đi” là gì, nhưng ở lúc
này tôi hiểu rõ ràng ngay cái nghĩa gớm ghê của nó. Tôi chui vào chăn mà
khóc. Thày tôi lại mở cửa bước ra.
Ngày hôm sau, ở Nhà xác về, tôi thấy ông Bồng đang ngồi sơn chiếc
quan tài. Mầu sơn đỏ như sắc máu! Bàn tay run rẩy của ông chậm chạp đưa
chiếc bút sơn cùn trên tấm ván gỗ vàng tâm còn ướt, tiết ra một mùi hôi
hám. Cỗ quan tài đóng vội, cá không liền khớp, gỗ xấu nứt vỡ ra, ông Bồng
phải lấy đất sét trộn vôi nhét vào. Cái quan tài của mẹ tôi! của người đàn bà
suốt đời vất vả, thờ chồng, quý con, hy sinh đến nỗi quên cả thân mình.
(Ông Bồng! ông đã chết từ lâu rồi, nhưng từ ngày nào, tháng nào, năm
nào, tôi không biết, vì kẻ bạc bẽo này có trở lại thăm cái vườn dâu nương
sắn nữa đâu! Tôi chưa được tạ ơn ông. Thú thực rằng, - vong hồn ông hãy
tin cho tôi - ngày ấy, và cả ngày nay nữa, tôi thầm ước được ngồi sơn một
chiếc quan tài cũng bằng thứ sơn đỏ tươi ấy để liệm ông, để tạ ơn ông).
Hôm đưa đám mẹ tôi, sương mù tan đi, trời bớt lạnh và nắng hừng lên từ
sáng sớm. Bốn người phu gày ốm do thằng Bống chạy đi mướn được, vác
cỗ đòn gỗ mộc đến, đặt chiếc áo quan lên. Trống kèn không có. Theo sau
chỉ có dăm ba người bạn làm việc cùng thầy tôi. Dị đi kèm tôi một quãng