Cái chết của lão già câm khiến tôi ngơ ngẩn mất mấy ngày. Và tôi cứ
rùng mình nghĩ đến đôi mắt đỏ ngầu của lão nhìn tôi lần sau chót đó.
Mẹ tôi thường cho tôi theo đến chợ. Không phải là chợ ở trong tỉnh mà
cách xa một quãng đường dài. Chợ họp trong một rừng thông, một bên có
núi đồi, xa xa là biển cả mênh mông, đứng ở chợ nghe rõ tiếng sóng vang
dội lại.
Mẹ tôi hay mua những con “bông thùa”, giống như con đỉa, - cái giống
này tôi sợ lắm, cũng như bây giờ tôi sợ đỉa, sợ giun. Lần nào đi chợ về, tôi
cũng được bưng một rổ sim đầy, tôi cùng Dị ăn đến hai ngày mới hết. Lần
nào đi chợ về, tôi cũng được mấy cái mai con mực, Dị và tôi hì hục dùng
mấy cái mai mực làm thuyền chiến, trên có lính cắt bằng giấy cứng, đủ cả
đao cung. Chúng tôi đem ra ngoài bến, thả bên những hòn đá dưới gậm cầu
tầu. Sông Bạch Đằng thường có gió to sóng lớn. Hai cái thuyền trắng nõn
nổi lềnh bềnh trên mặt nước đục ngầu, luôn luôn nhô lên, chúi xuống va
chạm vào nhau. Hồi ấy đã được học lịch sử, chúng tôi có cảm tưởng rằng
đấy là một trận huyết chiến của Trần Hưng Đạo với Ô Mã Nhi của nhà
Nguyên, - “Xưa kia, tại con sông này, biết đâu chẳng chính ngay chỗ chúng
ta đang đứng, đã vùi bao nhiêu xương máu”, - nghĩ thế, chúng tôi la hét ầm
lên, trợ oai cho mấy anh lính giấy đang va đập vào nhau.
Một buổi sớm, độ hồi canh tư, tôi đang chập chờn đợi thằng con ông
Bồng đến gõ vào vách đánh thức tôi dậy học bài thì tôi nghe thấy tiếng kêu
văng vẳng ở bến tầu, thày mẹ tôi cũng vùng cả dậy, ai nấy ngơ ngác lắng tai
nghe.
Tôi loáng thấy bóng ông Bồng chạy vút qua cửa sổ. Mẹ tôi gọi giật ông
lại hỏi, giọng bà run lên:
- Cái gì đó hở ông?
Ông Bồng đáp vội vàng, giọng ông run run: