U tôi cho tôi đi tìm cách để nên người. Vậy mà chưa ra cái ngợm gì, chỉ
mới rửa soong chảo, sau đó là bây giờ đây, ngày ngày quét phân voi phân
hổ, rồi lại ngửa mặt lên cho người ta trát vôi bôi mực vào mặt mũi, người ta
đeo biển vào lưng, u ơi, người mẹ nghèo đói xa xôi của con ơi, con đã lạy
biệt mẹ ra đi để nên người như thế đấy, để cho con voi quật vỡ sọ như thế
đấy!
Ý nghĩ bi đát kia làm hai mắt tôi đỏ sọng. Tôi khóc. Tôi vâng lời người
ta dạy. Tôi còng lưng xuống mà đi, đi hết các ngã phố phường cát bụi. Chứ
biết làm sao! Những con thú rừng kia còn phải khuất phục người ta, chứ cái
thằng Bờm nhãi nhép này là cái thá gì mà bướng.
Tôi nghênh ngang với chiếc mũ nhọn, bộ mặt hề, với tấm biển; người ta
xúm đọc trên lưng tôi. Tôi có cảm tưởng lưng tôi nhoi nhói buốt lên vì hàng
ngàn, hàng vạn, hàng triệu con mắt soi vào, chiếu vào, như những mũi kim
châm. Tụi trẻ con bu kín quanh tôi, chúng ngắm tôi như ngắm một con chó
ghẻ mà còn được chủ làm dáng bằng cách tết cái băng lụa và đeo chuỗi
chuông đồng vào cổ. Thoạt tiên tôi còn xấu hổ ở những phố đầu, sang đến
mấy phố sau, tôi cũng trơ đi. Đi qua những cửa hiệu có gương ngoài cửa,
tôi liếc ngắm mặt mũi thân hình tôi, ủa này lạ, tôi thấy tôi ngồ ngộ, còn đẹp
là khác nữa. Chứ sao! Chán người bôi phấn vẽ râu như tôi, mà họ lấy thế
làm đẹp, thì tôi, sao lại cho mình là xấu, hả!
Mỏi gẫy chân, và đau rừ bả vai xương sống vì tấm biển nặng. Tôi dở
khóc, dở mếu, nhưng nghĩ đến lời dọa của gã lực lưỡng tóc quăn, tôi cứ
phải đi, đi liền liền, không dám nghỉ, không dám uống nước, dù là uống
nước Hồ Gươm, chứ tôi thì làm gì ra một đồng trinh nhỏ.
Thành phố bật đèn, tôi mới quay về. Khu chợ Hàng Da, đèn sáng rực
trời. Lá cờ Pháp, lá cờNambay phất phới. Kèn “bú dích” du dương, ầm ĩ.
Người xô lấy vé như nêm cối. Có kẻ khi chưa lấy được vé thì đầu còn
bóng, áo quần là hộp; khi đã mở một đường huyết chiến để vào và để ra,
ông công tử ấy đầu bù, ca vát tuột, cả người tơi ra như cái giẻ rách.