đậu, kêu thảm thiết như là ma quỷ. Khám phá được cây đó, lão Trô Ún suýt
thì mất mạng. Chính vào cái buổi trời sầu đất thảm ấy, đang đuổi một con
hươu qua chân núi bỗng lão dừng chân. Lão vô tình vịn tay vào một thân
cây. Bàn tay lão vừa bị một cành gai cứa phải. Một chút nhựa cây dính vào
vết gai đâm, khiến lão lao đao gục xuống. Vốn gan góc, và tinh nhanh, lão
biết mình đã mó vào một cây nhựa độc, lão cố gượng dậy đi tìm lá nhịt.
Phúc cho lão, lão tìm được ngay lá giải độc gần ngay chỗ đó. Đắp lá rồi, lão
già tỉnh hẳn.
Một ý nghĩ độc ác thoáng qua đôi mắt mèo lấp lánh, lão bèn rút dao lưng
khía vỏ cây. Một thứ nhựa đỏ như máu rỉ ra. Lão quệt nhựa vào đầu chiếc
tên, lắp vào nỏ, giương lên bắn thử một con trâu không biết của nhà ai đang
ăn cỏ. Mũi tên cắm ngập đùi, con vật chỉ kịp chạy đủ ba bước thì nhựa độc
ngấm rất nhanh, nó lăn ra chết. Lão thầy mo đắc trí cười rú lên mấy tiếng,
lấy đầy nhựa vào ống tre rồi đi về.
Từ đấy, lão già Trô Ún không cần đấu sức cùng hổ, lợn lòi, trăn gió nữa.
Chỉ một mũi tên là hạ xong địch thủ. Ác thú không bao giờ chạy được quá
ba bước trước khi lăn cổ chết. Mà tài nỏ của “lão mắt mèo”, đêm cũng như
ngày, chẳng bao giờ làm phí một mũi tên bôi nhựa độc.
Thứ nhựa ấy rồi cũng có kẻ tìm ra sau lão nhưng ít kẻ có gan dùng, vì lúc
chặt vỏ cây, không khéo tay, nhựa bắn sang thịt da một chút, ắt chết liền.
Đến nỗi người ta đâm sợ nó và đặt tên cho nó là “đoạn trường thảo”. Về
sau, muốn phòng cho những tiều phu vô phúc chạm vào cái cây ma quái ấy,
người ta bàn đốt nó đi. Họ đã chất củi, chất nhựa thông quanh gốc cây và
châm lửa vào một chiều gió lộng. Gió mang lửa lên ngùn ngụt, nhưng cái
cây nọ vẫn không sao cháy được. Hết lớp củi này đến lớp củi khác, bọn sơn
thôn reo hò vang động cả núi rừng vậy mà “đoạn trường thảo” vẫn cứ đứng
trơ trơ như cột đá giữa trời. Bọn dân sợ hãi, đã có kẻ bỏ chạy ra về. Chúng
yên trí là cây ma quái linh thiêng nên chỉ nhìn nhau không dám reo hò nữa.