vết sẹo xám xa xa chạy ngoằn ngoèo về hướng Nam qua những đồng cỏ như
những mảng vá màu nâu hay xanh lục.
“Trước đây có chu du nhiều chưa anh bạn?” Thầy hỏi với qua vai. “Đã
nhìn thấy được gần hết Hạt chưa?”
Tôi thưa với thầy là mình chưa bao giờ rời xa khỏi trang trại của bố tôi
hơn một cây số. Chuyến chu du xa nhất mà tôi từng thực hiện là đi đến chợ
trong vùng.
Thầy Trừ Tà lẩm ba lẩm bẩm và lắc đầu; tôi có thể nhận thấy là thầy
không được hài lòng hết mực với câu trả lời của tôi.
“Vậy thì, bắt đầu từ hôm nay con sẽ chu du,” thầy bảo. “Chúng ta đang đi
về hướng Nam tới một ngôi làng lên là Horshaw. Chỉ hơn hai mươi lăm cây
số theo đường quạ bay và chúng ta phải đến đó trước khi trời tối.”
Tôi có nghe về Horshaw. Đấy là một ngôi làng hầm mỏ và có vỉ than lớn
nhất trong Hạt, cung cấp đầu ra cho hàng tá mỏ than chung quanh. Tôi chưa
bao giờ mong được đến đấy và thắc mắc công chuyện của Thầy Trừ Tà ở
một chỗ như thế có thể là gì mới được.
Thầy bước nhanh khủng khiếp, sải từng sải chân thật dài mà nhẹ nhàng
như không. Chẳng mấy chốc tôi đã phải vất vả theo cho kịp; vừa phải mang
chiếc túi nhỏ đựng tư trang và quần áo của mình, giờ tôi còn phải vác luôn
túi của thầy nữa, mà dường như mỗi phút trôi qua, chiếc túi mỗi thêm nặng.
Và rồi, để cho mọi chuyện thêm khó khăn, trời bắt đầu đổ mưa.
Khoảng một tiếng trước giữa trưa thì Thầy đột ngột dừng bước. Thầy
quay lại nhìn tôi trừng trừng. Lúc đấy tôi đang cách thầy mười sải chân. Hai
chân tôi đau nhức và tôi đã bắt đầu đi khập khiễng. Con lộ chẳng hơn một
rãnh đường hẹp là mấy và lại nhanh chóng biến thành đường bùn. Khi vừa
bắt kịp thầy, tôi vấp phải ngón chân mình, trượt đi và sém chút mất thăng
bằng.
Thầy tặc lưỡi. “Thấy xây xẩm hả anh bạn?” thầy hỏi.
Tôi lắc đầu. Tôi muốn cho cánh tay mình nghỉ ngơi chốc lát nhưng có vẻ
như bỏ túi thầy xuống bùn là không được đúng đắn cho lắm.