“Vậy là tốt,” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa hơi hơi cười mỉm, nước mưa nhỏ
thành giọt từ vành mũ trùm xuống bộ râu thầy. “Không bao giờ tin tưởng
một kẻ xây xẩm. Đấy là một điều rất đáng phải ghi nhớ.”
“Con đâu có xây xẩm,” tôi phản đối.
“Không ư?” thầy nhướn mày hỏi lại. “Vậy thì chắc là do đôi ủng của con
rồi. Đôi ủng ấy sẽ chẳng giúp đỡ được gì nhiều trong công việc này đâu.”
Ủng của tôi thì cũng giống như ủng của bố hay của anh Jack, bền thì bền
thật đấy, vả lại cũng thích hợp cho đám bùn sình trong trang trại, nhưng lại
là loại ủng cần phải được mang thật lâu cho quen chân. Một đôi mới toanh
thường làm bạn chịu hai tuần phồng rộp trước khi chân bạn vừa vặn với đôi
giày.
Tôi nhìn xuống đôi ủng của Thầy Trừ Tà. Đôi ủng làm từ da thuộc loại
hảo hạng, bền chắc, đế ủng dày dặn hơn bình thường. Đôi này thì phải tốn
khối tiền, nhưng theo tôi thì đối với một người phải đi bộ thật nhiều, đôi ủng
này thật đáng đồng tiền bát gạo. Đôi ủng cong lên theo từng bước đi của
thầy và tôi liền biết là chúng rất êm ái ngay phút đầu tiên thầy xỏ chân vào.
“Trong công việc này, một đôi ủng tốt là rất quan trọng,” thầy nói.
“Chúng ta chẳng phụ thuộc vào con người hay quái vật để đưa chúng ta tới
nơi ta cần tới. Nếu con dựa vào đôi chân cứng cáp của mình, thì chúng sẽ
không bao giờ làm con thất vọng. Vậy nên nếu cuối cùng ta quyết định nhận
con vào, ta sẽ tìm cho con đôi ủng giống như của ta. Còn cho đến lúc đấy,
con sẽ phải xoay sở lấy theo cách tốt nhất.”
Đến giữa trưa, chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi chóng vánh, trú trong một
chuồng gia súc bỏ hoang để tránh mưa. Thầy Trừ Tà lấy từ trong túi áo ra
một mảnh vải rồi mở ra, bày ra một tảng lớn phô mai vàng vàng.
Thầy bẻ một miếng đưa cho tôi. Tôi cảm thấy tệ hơn, vả lại cũng rất đói
nên tôi ăn ngấu ăn nghiến. Thầy Trừ Tà chỉ ăn một mẩu bé tẹo rồi gói phần
còn lại nhét trở vào túi.
Khi vào trong trú mưa, thầy kéo mũ trùm ra sau nên giờ là lần đầu tiên tôi
có dịp nhìn thấy rõ ràng. Ngoại trừ bộ râu dài rậm và đôi mắt của kẻ treo cổ,