Độ khoảng thêm một trăm bước chân nữa, tôi quành qua một ngã tư đường
và những mái ngói bằng đá phiến xam xám của làng Chipenden hiện ra
trước mắt.
Ngôi làng rộng lớn hơn tôi tưởng. Có ít nhất là một trăm căn nhà tranh,
rồi lại có một quán rượu, một trường học và một nhà thờ thật lớn có tháp
chuông. Không có bảng hiệu của quảng trường họp chợ gì cả, nhưng con
đường chính trải đá cuội, con đường này mới dốc đứng liên xiên làm sao, lại
tấp nập các bà các cô tay mang làn trĩu nặng ra ra vào vào các cửa hiệu.
Ngựa cùng các cỗ xe đang đứng chờ đầy cả hai bên đường, thế nên rõ là các
bà vợ của mấy bác nông dân trong làng đến đây mua sắm, và chắc là có cả
dân ở những làng lân cận.
Tôi dễ dàng tìm thấy tiệm bán thịt và cùng đứng xếp vào hàng các phụ nữ
nói cười huyên náo, người nào cũng ơi ới gọi bác bán thịt, một người đàn
ông mặt đỏ lựng, to lớn, vui nhộn, hàm râu quai nón hung đỏ. Có vẻ như bác
ấy biết tường tận tên mỗi người và làm cho mọi người cười vui ha hả với
những câu chuyện tếu, được nhanh nhảu kể ra hơi chút khó hiểu. Tôi không
hiểu hết mọi câu chuyện tếu ấy nhưng chắc là đám phụ nữ thì có và dường
như các bà rất thích thú thì phải.
Không có mấy ai quan tâm đến tôi lắm, nhưng cuối cùng tôi cũng đến
được quầy hàng và đến phiên tôi được mua.
“Cháu ghé lấy đơn hàng của ông Gregory ạ,” tôi thưa với bác bán thịt.
Tôi vừa mở miệng, cả tiệm đột nhiên im bặt và mọi tiếng cười ngưng hẳn.
Bác bán thịt với ra sau quầy lôi ra một chiếc túi. Tôi có thể nghe thấy mọi
người thì thào sau lưng mình, nhưng dù có căng cả hai tai, tôi cũng chẳng
nghe ra được họ đang bàn tán gì cả. Khi tôi liếc ra sau thì mọi người tảng lờ
nhìn sang chỗ khác chứ chẳng nhìn vào tôi. Có vài người thậm chí còn nhìn
chằm chằm xuống sàn nhà.
Tôi đưa cho bác bán thịt đồng xu bạc, cẩn thận kiểm lại tiền thừa, nói lời
cảm ơn bác ấy rồi xách bị ra khỏi tiệm, vắt túi qua vai khi tôi ra đến ngoài
phố. Ghé qua cửa tiệm thực phẩm chẳng mất bao nhiêu thời gian. Số lương