Sau khi pha trộn hỗn hợp ấy trong chiếc xô kim loại to tướng, tôi dùng
chiếc cọ to để viền phía bên trong cái hố. Cũng giống như việc sơn nhà thôi
nhưng khó khăn hơn nhiều, và lớp phủ phải thật hoàn hảo để ngăn cho ngay
cả tên ông kẹ xảo quyệt nhất cũng không trốn được ra ngoài.
“Phải làm cho toàn diện vào đấy anh bạn,” Thầy Trừ Tà bảo tôi. “Một ông
kẹ có thể đào thoát qua cái lỗ chẳng to hơn đầu kim là mấy đâu.”
Dĩ nhiên là, ngay sau khi cái hố được hoàn tất theo đúng yêu cầu của
Thầy Trừ Tà, tôi phải lấp hố lại và bắt đầu lại từ đầu. Thầy bắt tôi thực hành
đào hai hố mỗi tuần, đây là công việc nặng nhọc, nhễ nhại mồ hôi và chiếm
hết nhiều thời gian của tôi. Công việc này cũng hơi hơi dễ sợ nữa vì tôi phải
thi công gần những chiếc hố đang giam sẵn những ông kẹ thực thụ, mà thậm
chí giữa ban ngày ban mặt, nơi ấy cũng rất ớn lạnh. Nhưng tôi để ý thấy
Thầy Trừ Tà không đi xa tôi lắm, và khi nào thầy cũng có vẻ rất quan tâm,
canh chừng và cảnh giác, việc ấy nói lên rằng ta không bao giờ có thể lơ là
với đám ông kẹ ngay cả khi chúng đã bị chèn.
Thầy Trừ Tà cũng bảo rằng tôi cần phải biết mọi ngóc ngách trong Hạt –
mọi làng mạc thị trấn trong ấy cũng như là con đường nào ngắn nhất đi từ
một nơi này sang nơi khác. Vấn đề là mặc cho thầy bảo mình có rất nhiều
bản đồ trong thư viện trên lầu, dường như tôi luôn phải làm việc theo cách
khó khăn nhất, thế nên thầy bắt tôi khởi sự bằng việc tự tay tôi phải phác
thảo bản đồ.
Chính giữa bản đồ là ngôi nhà cùng những khu vườn của thầy, và bản đồ
phải bao gồm ngôi làng cùng những rặng đồi đá gần nhất. Mục đích là bản
đồ phải dần dà được mở rộng ra để bao gồm vào đấy ngày càng nhiều thêm
những vùng quê lân cận. Nhưng việc vẽ vời không phải là điểm mạnh của
tôi, và như tôi đã nói, Thầy Trừ Tà là người cầu toàn nên tấm bản đồ ấy mất
rất nhiều thời gian để được phát triển hơn ra. Chỉ đến khi ấy, thầy mới bắt
đầu chỉ cho tôi xem bản đồ của riêng thầy, nhưng rốt cuộc thì thầy bắt tôi
dành nhiều thời gian để cẩn thận gấp tấm bản đồ ấy lại hơn là thực sự nghiền
ngẫm lấy chúng.