“Cháu đã làm hết sức rồi,” tôi đáp, cố không lôi kéo người ta chú ý đến
hai chúng tôi.
“Vậy thì có làm hết sức của mấy người cũng không được ích gì lắm, phải
không nào?” bà ta hỏi. “Ngài Phán Quan đã nói đúng về lũ các người, các
người chỉ toàn đem lại rắc rối và đáng phải nhận những gì sẽ xảy đến cho
các người.”
Vừa nghe nhắc đến tên Phán Quan tôi đã giật thót, nhưng nhiều người
khác bắt đầu kéo vào, tất cả đều mặc áo thụng đen và áo choàng. Các cha xứ
– hàng tá hàng tá cha! Tôi chưa khi nào nghĩ mình sẽ trông thấy nhiều cha
xứ cùng một lúc đến vậy. Cứ như thể giới tăng lữ trên toàn thế giới này đã
tựu về dự đám ma của Cha Gregory già cả. Nhưng tôi biết là không phải thế
và họ chỉ là những cha xứ sống ở Priestown mà thôi – và có lẽ thêm vài cha
từ những làng quê và thị trấn lân cận. Bà quản gia chẳng nói thêm gì và vội
vã trở lại hàng ghế của mình.
Đến lúc này thì tôi sợ thực sự. Tôi đang ở đây, ngồi trong thánh đường,
ngay bên trên khu hầm mộ là nhà của thứ đáng sợ nhất trong toàn Hạt, vào
cùng thời điểm mà tên Phán Quan ghé qua – và tôi đã bị nhận diện. Tôi tuyệt
vọng những muốn rời khỏi nơi này càng xa càng tốt và thấp thỏm nhìn
quanh tìm bóng dáng thầy mình, nhưng chẳng thấy thầy đâu. Ngay khi tôi
vừa định chắc phải bỏ đi thôi, bỗng nhiên những cánh cửa lớn của nhà thờ bị
đẩy tung ra rồi một đoàn dài những người diễu qua tiến vào. Chẳng còn lối
thoát.
Thoạt tiên, tôi nghĩ người đàn ông đi đầu là tên Phán Quan vì ông ta có
những nét tương tự. Nhưng người này trông lớn tuổi hơn và tôi nhớ ra Thầy
Trừ Tà từng nói tên Phán Quan có người chú là giám mục của Priestown;
thế hẳn là ông này rồi.
Tang lễ bắt đầu. Lời hát cất lên mải miết và chúng tôi phải đứng lên, ngồi
xuống và quỳ liên miên. Vừa vào một vị trí chưa ấm chỗ thì chúng tôi đã
phải thay đổi vị trí tiếp. Nếu như tang lễ được cử hành bằng tiếng Hy Lạp,
hẳn tôi còn hiểu thêm được chút ít những gì đang diễn ra, vì mẹ tôi đã dạy
cho tôi ngôn ngữ ấy từ khi tôi còn nhỏ. Nhưng phần lớn tang lễ của Cha