“Vậy sao,” ông Andrew bảo, “điều này giải thích tất cả rồi, phải không
nào? Con có ý tốt, ta biết, nhưng chúng ta chỉ làm cho mọi chuyện thêm tồi
tệ mà thôi.”
“Thầy Trừ Tà đã bảo cháu rằng chết vì bị thiêu là một cái chết kinh
khủng. Là cái chết tồi tệ hơn hết thảy. Đấy là lý do vì sao thầy không tán
thành việc thiêu chết phù thủy. Vậy tại sao bác lại để cho thầy phải chịu đau
đớn ấy? Cháu xin bác, bác phải giúp cháu. Đây là cơ may cuối cùng cho
thầy cháu đấy.”
Lần này ông Andrew chẳng nói thêm gì. Ông ngồi mãi nơi ấy, chìm đắm
trong suy tư. Rốt cuộc khi ông đứng dậy khỏi ghế, ông chỉ bảo là tôi nên
lánh mặt đi.
Có vẻ là dấu hiệu tốt rồi đây. Ít ra thì ông ấy không bảo tôi đi gói ghém đồ
đạc.
Tôi ngồi sau nhà, bồn chồn chờ đợi khi buổi sáng chậm chạp trôi đi. Tôi
đã chẳng chợp mắt được chút nào và đang mệt bã, nhưng sau những biến cố
trong đêm rồi thì ngủ là chuyện tôi chẳng hứng thú muốn làm.
Ông Andrew đang làm việc. Hầu hết thời gian tôi nghe thấy tiếng ông
loay hoay trong xưởng, nhưng thi thoảng cũng có tiếng chuông kính coong
khi khách hàng ra vào cửa hiệu.
Khi ông Andrew quay trở vào bếp là đã gần giữa trưa. Mặt ông có vẻ gì
đấy khang khác. Ông trông đăm chiêu. Và theo ngay sau lưng ông là một
người khác!
Tôi đứng bật dậy, sém chút co giò bỏ chạy, nhưng cánh cửa hậu lại bị
khóa mất rồi, còn chắn giữa tôi và lối ra cửa trước là hai người đàn ông.
Nhưng rồi tôi nhận ra người lạ và thấy nhẹ cả người. Đấy là huynh Peter,
ông ta đang mang theo túi của Thầy Trừ Tà, cả thanh trượng lẫn áo choàng
của thầy trò tôi nữa!
“Không sao đâu cậu bé,” ông Andrew bước đến đặt tay lên vai tôi trấn an.
“Bỏ cái vẻ lo lắng trên mặt đi rồi ngồi xuống nào. Huynh Peter là bạn đấy.
Xem này, huynh ấy còn mang cho con vật dụng của John nữa kìa.”