hầm rượu vào lúc nửa đêm. Đấy là một đêm tôi sẽ không bao giờ quên được;
giờ đây nghĩ lại vẫn còn khiến tôi rùng mình.
Ông Andrew cùng tôi bước qua các bậc cấp để xuống hầm rượu. Sàn nhà
lát đá trống trơn, chỉ có một chồng chăn và thảm cũ. Trông chúng cũng khá
khô ráo nhưng lại bốc mùi ẩm mốc. Ông Andrew đưa cho tôi cây nến của
mình rồi nhanh nhẹn lôi chồng thảm sang bên, để lộ ra cách cửa sập bằng
gỗ.
“Có nhiều lối để đi xuống hầm mộ,” ông nói, “nhưng đây là lối dễ dàng
và ít rủi ro nhất. Con sẽ không bắt gặp mấy người dòm ngó quanh đây đâu.”
Ông nhấc cánh cửa sập lên và tôi có thể thấy những bậc cấp bằng đá dẫn
vào bóng tối. Mùi đất ẩm và mùi mủn bốc lên. Ông Andrew lấy lại cây nến
rồi bước xuống trước, bảo tôi đứng chờ một chốc. Rồi ông gọi với lên,
“Xuống đi con, nhưng cứ để cửa mở. Có lẽ chúng ta phải vội thoát ra khỏi
đây đấy!”
Tôi để chiếc túi của Thầy Trừ Tà cùng với hai chiếc áo choàng lại hầm
rượu và đi theo ông ấy, tay vẫn nắm chặt thanh trượng của thầy mình. Khi
xuống đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy mình vẫn còn đứng trên mặt nền trải đá
cuội chứ không phải là bùn nhão như mình tưởng. Khu hầm mộ cũng được
lát nền tinh tươm như những con phố trên kia. Liệu có phải đã có rất nhiều
người từng sinh sống tại nơi này trước khi thị trấn được dựng nên không;
những người đã thờ phụng Quỷ Độc ấy? Nếu thế thì những con phố trải đá
cuội của Priestown đã được sao chép lại từ những lối đi dưới hầm mộ này.
Ông Andrew khởi bước mà không nói lời nào, làm tôi có cảm giác ông ấy
chỉ muốn làm cho xong việc thôi. Tôi biết mình cũng muốn thế.
Thoạt đầu đường hầm đủ rộng cho hai người bước đi bên cạnh nhau,
nhưng trần hầm chèn đá lại quá thấp nên ông Andrew phải bước cúi đầu về
phía trước. Chẳng trách sao Thầy Trừ Tà gọi những người nọ là “Người
Lùn”. Những người xây nên khu vực này chắn chắn là nhỏ bé hơn người dân
ở đây nhiều.