“Bằng mọi giá, dù có xảy ra chuyện gì đi nữa,” thầy tôi nói tiếp, “cũng
đừng bén mảng ra ngoài. Chỉ được dùng sắt và muối khi ông kẹ vào tới
trong bếp thôi. Nếu con sử dụng hai thứ ấy ngoài trời kia dưới thời tiết này
thì sẽ không có tác dụng tối đa đâu. Ta sẽ lừa nó chui vào trong này. Sẵn
sàng nhé.”
Thầy Trừ Tà mở khóa cửa, tay mang theo trượng, bước ra ngoài sân. Thầy
là người can đảm nhất mà tôi từng gặp. Về phần mình, chắc chắn là tôi
chẳng muốn đối mặt với ông kẹ kia trong bóng tối đâu.
Ngoài kia trời tối đen như mực, còn trong bếp mọi cây nến đều đã bị thổi
tắt. Tôi thật không muốn bị chìm vào bóng đêm tối như hũ nút này đâu,
nhưng may là chúng tôi còn một ngọn đèn lồng. Tôi xách đèn đến gần cửa
sổ nhưng cũng chẳng rọi được bao nhiêu ánh sáng ra đến ngoài sân. Thầy
Trừ Tà đang đứng đâu đấy cách xa một khoảng nên tôi vẫn không thể thấy
hết những gì đang diễn ra và phải quan sát nhờ vào ánh chớp.
Tôi nghe thấy Thầy Trừ Tà gõ trượng ba lần xuống nền đá; thế rồi, rống
lên một tiếng, ông kẹ nhảy bổ vào thầy, phóng từ đầu này sang đầu kia sân
nông trại. Tiếp đấy là một tiếng kêu đau đớn và một âm thanh nghe như
cành cây gãy đôi. Khi áng chớp lại chói lòa lên, tôi trông thấy Thầy Trừ Tà
đang khuỵu gối quỳ xuống đất, hay bàn tay giơ lên trước mặt cố che lấy đầu.
Trượng của thầy nằm lăn lóc trên nền đá cách thầy một quãng, đã gãy tan
thành ba mảnh.
Trong bóng tối tôi nghe có tiếng đá tảng rơi xuống sân nền đá gần chỗ
Thầy Trừ Tà, trên đầu thầy còn có thêm nhiều viên ngói rơi ra khỏi mái.
Thầy kêu lên vì đau khoảng hai ba lần gì nữa, khiến tôi dù đã được dặn là
phải đứng bên trong cửa sổ mà quan sát và chờ cho ông kẹ chui vào nhà, tôi
vẫn băn khoăn không biết mình có nên chạy ra ngoài giúp thầy chăng. Thầy
tôi đang phải đương đầu với khó khăn và có vẻ chắc chắn là sẽ mang lấy kết
cục tồi tệ nhất.
Tôi căng mắt trông ra vùng tối, cố nhìn xem chuyện gì đang diễn ra, lòng
hy vọng là ánh chớp sẽ lại soi sáng khoảng sân lần nữa. Tôi không thấy
bóng dáng Thầy Trừ Tà đâu cả. Nhưng rồi cửa sau bắt đầu kẹt mở thật