chội và tù túng đến phát ghê như thế. Đường hầm này không có cột chống
nào và tôi phải ép mình không được nghĩ đến khối lượng đất khổng lồ bên
trên. Nếu đường hầm này mà sập, chúng tôi sẽ bị mắc kẹt trong này trong
bóng tối: có thể chúng tôi sẽ nhanh chóng bị đè bẹp; có thể chúng tôi sẽ phải
chịu chết ngạt một cách đáng sợ, từ từ.
Tôi mất hẳn khái niệm thời gian. Dường như chúng tôi bò lần theo đến vô
tận, nhưng rốt cuộc cũng đi vào được một căn phòng bằng đất đủ rộng cho
chúng tôi đứng lên. Trong một đỗi tôi tưởng chúng tôi đang đứng ngay dưới
ngọn tháp, nhưng rồi tôi trông thấy trước mặt mình là một đường hầm khác.
Không giống như địa đạo chúng tôi vừa bò qua, đường hầm này đủ rộng để
mọi người bước thẳng vào và có cả cột kèo bằng gỗ chắc chắn đỡ lấy trần
hầm.
“Đấy,” Mab lên tiếng, “tớ đã chỉ đi đến tận đây thôi. Đường hầm này có
mùi không hay...”
Nói thế, cô ta rướn người vào đánh hơi ầm ĩ ba lần. Tôi thắc mắc cô ta
giỏi đánh hơi đến độ nào nhỉ. Thầy Trừ Tà từng bảo tôi khả năng này ở mỗi
phù thủy mỗi khác nhau. Sau một cái đánh hơi nhanh gọn, Mab quay đi và
rùng mình ghê sợ. “Dưới kia có thứ gì đó vừa ướt nhẹp vừa mang mùi chết
chóc,” cô ta bảo. “Không thích cái đường hầm này chút nào!”
“Đừng có nhát thế chứ!” Alice mai mỉa. “Để tao cũng đánh hơi xem nào.
Hai cái mũi thì tốt hơn một mà – phải thế không?”
“Được thôi – nhưng mà nhanh nhanh lên đấy,” Mab đồng ý, đưa mắt bồn
chồn nhìn đường hầm.
Alice chẳng chút do dự. Ngửi một lần chóng vánh và cô gái mỉm cười.
“Dưới kia chẳng có gì phải lo lắm đâu. Ẩm ướt hay chết chóc chúng ta đều
xử lý được mà. Tom có mang theo thanh trượng đấy thôi. Thế là đã đủ để cái
thứ ấy tránh xa ra rồi. Thôi nhé Mab, đi thôi nào. Mày đi trước đi! Đấy là
nếu như mày không sợ quắn lên ấy. Tao tưởng bọn Mouldheel chúng mày
gan lì lắm cơ mà!”