trị Pendle!”
Trong vòng một giờ đồng hồ, một đội bốn bác thợ nề đã đến nơi và bắt
tay vào sửa lại bức tường thành. Bốn người đàn ông có vẻ bồn chồn và rõ
ràng là bị cưỡng ép làm việc. Hiển nhiên bọn họ muốn làm xong việc càng
nhanh càng tốt, nên họ ra sức phô trương sức lực lẫn khả năng khéo léo nhấc
những phiến đá nặng trịch trả lại vị trí cũ.
Bọn khác trong tộc theo lệnh đi xuống mấy bậc cấp để thắt chặt an ninh ở
khu vực dưới thân tháp. Chúng nhanh chóng quay trở lên, báo cáo lại rằng,
đúng như dự đoán, lũ Malkin đã rời khỏi phần hầm ngục bên dưới và đào
thoát qua đường hầm. Mab ra lệnh cho những tên canh gác phải ở yên dưới
đấy để trông chừng. Khi phát hiện ra quân lính đã rời khỏi vùng lân cận thì
đám Malkin có thể quay trở lại.
Trước khi hoàng hôn buông xuống lỗ hổng trên tường thành đã được bít
lại, nhưng Mab vẫn còn một việc nữa cho mấy bác thợ nề. Cô ả bắt họ phải
khiêng hai chiếc rương khóa kín nặng trịch qua những bậc thang hẹp lên
pháo đài bên trên. Làm xong việc này, mấy bác thợ vội vã bỏ về và chiếc
cầu kéo được hạ xuống, phong tỏa chúng tôi bên trong ngọn tháp.
Ngoài Mab và hai con em, còn có mười mụ phù thủy khác nữa cho đủ số
đầu người của một hiệp hội. Nhưng cũng có thêm bốn người phụ nữ lớn tuổi
hơn, với nhiệm vụ là nấu nướng chăm lo cho những kẻ còn lại. Họ nấu một
món xúp loãng gồm khoai tây và cà rốt, và bất chấp thực tế là món này do
một thành viên trong tộc phù thủy nấu cho, tôi vẫn nhận lấy một đĩa đầy. Sợ
rằng có loại thuốc độc hay dược thảo nào đó sẽ khiến mình lọt vào tầm
khống chế của Mab, tôi kiểm tra xem có phải đĩa xúp của mình được múc từ
cùng một nồi xúp cho những kẻ còn lại. Khi bọn chúng ăn rồi, tôi mới nhúng
bánh mì vào xúp và bắt đầu ăn.
Sau bữa tối, tôi những muốn bắt tay vào xem qua những món đồ trong
rương của mẹ, nhưng Mab lại không cho phép và bắt tôi phải tránh xa rương
ra. “Chưa kịp xem xong thì cậu đã ngấy đến tận cổ cho xem,” cô ả bảo tôi.
“Cậu sẽ phải mất hàng tháng trời để dịch những cuốn sách kia ra...”