cứu lấy kho chứa cỏ hết; bọn họ đang lấy đồ ra khỏi nhà và chất lên cỗ xe
thồ. Dấu hiệu cảnh báo duy nhất mà bác nhận được khi đang tiến về phía
đám người đó là tiếng bước ủng từ đằng sau bác chạy lại. Trước khi kịp
quay lại thì bác đã bị nện một cú chí tử vào đầu và xỉu lăn quay. Khi bác tỉnh
dậy thì bọn chúng đã đi mất. Bác đã xem xét trong nhà nhưng không thấy
bóng dáng của Jack hay gia đình cậu ấy đâu. Bác xin lỗi cháu, Tom ạ, bác
không thể làm gì hơn.”
“Bác Wilkinson, cảm ơn bác đã chạy sang cố giúp,” tôi nói. “Cháu rất tiếc
là bác đã bị thương. Nhưng bác có trông thấy mặt mũi người nào không ạ?
Liệu bác có nhận ra chúng lần nữa không?”
Bác Wilkinson lắc đầu. “Bác không kịp đến đủ gần để nhìn thấy mặt
người nào trong bọn ấy, nhưng gần đấy có một người phụ nữ ngồi uy nghi
trên lưng con ngựa ô. Cũng là một giống ngựa quý hiếm đấy – loại thuần
chủng như số ngựa người ta hay đua trong hội chợ chính mùa xuân ở Topley
ấy mà. Bà ta đẹp lắm, cao lớn nhưng rất thon thả, với mái tóc đen dày óng ả.
Bà ta không chạy lăng quăng như bọn còn lại. Dù còn ở cách một quãng xa
nhưng bác có nghe thấy bà ta quát lên mấy tiếng nghe như là chỉ thị ấy.
Giọng bà ta uy quyền lắm cơ.
“Sau khi lãnh cú giáng vào đầu, bác chẳng còn sức làm gì. Sáng ngày
hôm sau bác vẫn còn ốm liệt giường, nhưng bác bảo thằng con đầu đi đến
Topley để báo cáo lại sự việc cho ông Ben Hindle, viên cảnh sát vùng đấy.
Hôm sau nữa ông ấy mang theo một đám dân làng. Họ lần theo con đường
mòn hướng đông bắc chừng đâu được hai canh giờ và tìm thấy một cỗ xe
thồ bị vất dọc đường cùng mấy bánh xe gãy hết cả. Họ có mang theo chó
nên lần được mùi theo đường bộ cho đến khi dấu vết đột ngột mất đứt. Ben
bảo ông ấy chưa từng chứng kiến một chuyện như thế. Cứ như thể bọn
chúng bốc hơi đi mất. Thế nên chẳng thể làm gì khác hơn ngoài việc phải
hủy bỏ cuộc truy lùng và quay trở về. Mà Tom này, sao cháu không vào
trong nhà ăn chút gì nhỉ? Nhà bác sẵn lòng mời cháu vào ở tạm vài ngày cho
đến khi anh James của cháu về tới.”