trì hoãn sẽ tăng thêm hiểm nguy cho gia đình con đấy. Nhưng thầy tôi chẳng
chịu nghe lấy một lời, thầy khoát tay về phía ghế ngồi cạnh bàn bếp.
“Con hãy ngồi xuống nào,” thầy bảo tôi. “Dục tốc bất đạt đấy! Dẫu sao
chuyến hành trình cũng sẽ ngốn mất nguyên buổi chiều rồi sang đến đêm
nữa, mà đi đến Pendle lúc trời tối là chẳng khôn ngoan gì đâu.”
“Thế thì có sao ạ?” tôi phản đối. “Chẳng phải lúc nào đó chúng ta sẽ ở
đấy một thời gian sao? Đằng nào thì chúng ta cũng phải trải qua lắm đêm tại
đấy thôi.”
“Phải, quả là thế thật, nhưng vùng ven Pendle rất nguy hiểm vì ban đêm
chúng được những kẻ tránh né ánh sáng mặt trời trông chừng và canh gác.
Chẳng có cách nào lọt được vào nơi ấy mà không bị phát hiện, nhưng ít nhất
vào ban ngày thì chúng ta sẽ đi đến nơi mà vẫn còn giữ được mạng sống.”
“Cha Stocks có thể giúp chúng ta đi vào trót lọt,” tôi vừa nói vừa nhìn
quanh tìm bóng dáng cha ấy. “Cha Stocks biết rõ Pendle. Ắt cha phải biết
cách để chúng ta đến Downham một cách an toàn vào ban đêm.”
“Ta cũng cho là thế, nhưng cha ấy đã rời khỏi đây gần ngay trước khi con
về đến. Bọn ta đã bàn bạc cặn kẽ và cha Stocks đã cho ta mảnh ghép cuối
cùng để nghĩ ra được cách giải quyết đám phù thủy. Nhưng một số giáo dân
của cha Stocks ở Downham đang sợ hãi nên ông ấy không dám rời xa những
người ấy lâu được. Nào, anh bạn, con hãy bắt đầu lại từ đầu và kể cho ta
nghe mọi chuyện nào. Không được bỏ qua chi tiết nào nhé. Nói cho cùng thì
đấy là cách hay ho hơn là đâm đầu ra đường trong khi hai chúng ta lại không
có lấy đến nửa kế hoạch!”
Tôi làm theo, tự nhủ rằng, như thường lệ, chắc là Thầy Trừ Tà nói phải và
đấy là cách tốt nhất để giúp Jack, nhưng khi kể xong câu chuyện, nước mắt
đã dâng đầy mắt tôi khi tôi nghĩ đến những gì vừa xảy ra. Thầy Trừ Tà trừng
trừng nhìn tôi trong vài giây rồi đứng dậy. Thầy bắt đầu đi tới đi lui qua sàn
đá trước bệ lò sưởi phòng bếp.
“Ta lấy làm tiếc cho con. Hẳn phải rất khó khăn. Bố thì vừa qua đời, mẹ
lại bỏ đi và giờ còn thêm chuyện này nữa. Ta biết là khó khăn thật, nhưng