thủ, nhưng đất nước lúc ấy đang hòa bình, chẳng có ai để bắn cả, thế là tôi
giải ngũ và trở lại làm kẻ trừ tà. Mọi chuyện buồn cười quá nhỉ. Nhưng tôi
nói với cậu điều này – tôi chưa bao giờ bỏ chạy khỏi một trận chiến nào –
không giống cái lũ hèn hạ nhát gan trên kia.”
“Ông là pháo thủ? Ý là ông bắn pháo từ một trong mấy khẩu thần công to
tướng đó ấy ạ?”
“Là một khẩu chín ly, cậu Ward ạ. Loại súng thần công to nhất trong Hạt.
Và tôi vừa là tay pháo thủ thiện xạ vừa mang lon trung sĩ. Cơ bản thì, đấy là
khẩu súng của tôi!”
“Cháu đã thấy khẩu súng đó,” tôi bảo ông. “Mùa hè rồi, quân lính đã
chuyển nó từ Colne đến và dùng để chọc thủng tháp Malkin.”
“Họ mất bao nhiêu lâu vậy?” Ông Arkwright gặng hỏi.
“Họ bắn từ trưa cho đến chiều tà, rồi hoàn tất trong chưa tới một giờ đồng
hồ vào sáng hôm sau.”
“Vậy sao? Chả trách sao cuộc chiến dưới miền nam diễn ra tệ thế. Tôi
từng trông thấy ngọn tháp ấy, và tôi nghĩ mình có thể chọc thủng những bức
tường thành trong chưa tới hai giờ. Chỉ là chuyện kỹ thuật và tập luyện thôi,
cậu Ward ạ!” Ông Arkwright mỉm cười.
Thật lạ lùng làm sao khi ông đột nhiên trở nên vui vẻ và nói năng luôn
mồm đến vậy. Ông có vẻ phấn chấn. Như thể trận đánh nhau với đám đào
ngũ đã giúp vực dậy tinh thần của ông .
Tuy nhiên, lúc quay lại nơi ẩn dật, cơn thịnh nộ của ông Arkwright lại sục
sôi khi ông phát hiện ra rằng vị ẩn sĩ không thể tìm thấy nơi ẩn náu của mụ
Morwena.
“Tôi đã thực hiện phần thỏa thuận của mình – giờ thì ông phải giữ lời của
ông đi!” Arkwright nổi đóa.
“Kiên nhẫn nào, William,” Judd bình thản nói. “Mùa màng có đâm chồi
nảy lộc được giữa tiết đông không thế? Tất nhiên là không, vì việc gì cũng
có thời có lúc. Ta bảo mình chưa tìm ra thôi. Chứ không phải là sẽ không
bao giờ. Mà ta cũng đã tiếp cận rất gần chân tướng sự việc để biết là anh nói