“Ta sẽ cố hết sức. Từ khoảng cách này sẽ rất khó nói là anh ta còn sống
hay đã chết, nhưng nếu anh ta có để lại thứ gì thì tôi sẽ tìm ra thôi. Ông có
bản đồ không? Với lại vật gì thuộc về Bill ấy?”
Thầy tôi thọc tay vào túi, lấy một bản đồ ra, cẩn thận trải ra trên sàn động
gần đống lửa. Bản đồ này cũ và tơi tả hơn bản đồ của Bill Arkwright, nhưng
cũng bao quát cùng một khu vực.
Vị ẩn sĩ nhìn vào mắt tôi mà mỉm cười. “À này Thomas, dù còn sống hay
đã chết, một con người luôn dễ tìm hơn là một phù thủy đấy.”
Thầy Trừ Tà thò vào túi quần và lấy ra một chiếc nhẫn vàng mỏng mảnh.
“Cái này thuộc về mẹ của Bill,” thầy nói. “Là nhẫn cưới của bà ấy và trước
lúc chết bà đã tháo ra để lại cho Bill, cùng di thư nói cho Bill biết bà ấy yêu
con thế nào. Đây là một trong những tài sản Bill trân quý nhất nhưng anh ấy
chỉ mang nó một năm hai lần thôi: một lần vào ngày giỗ của mẹ và ngày còn
lại chắc là sinh nhật bà ấy.”
Tôi chợt nhận ra đây là chiếc nhẫn mình từng thấy trên nắp quan tài mẹ
ông Arkwright. Hẳn Thầy Trừ Tà đã đem nó ra khỏi phòng với ý định này.
“Nếu Bill từng mang chiếc nhẫn thì chắc sẽ tìm được thôi,” Judd Atkins
vừa nói vừa đứng lên. Ông cột một đoạn dây vào chiếc nhẫn, treo nhẫn đung
đưa trên bản đồ, di chuyển chầm chậm từ phải sang trái, tiến dần lên phía
bắc.
Chúng tôi quan sát vị ẩn sĩ trong im lặng. Ông làm việc rất tỉ mỉ nên mất
khá nhiều thời gian. Dần dà ông đến được vĩ độ vùng hồ nước. Chẳng mấy
chốc tay ông giật giật. Ông nhích xuống bên dưới một tí và lặp lại sự rà soát
cho đến khi tay ông lại giật tại cùng một địa điểm. Nơi này cách phía đông
Hồ Coniston hơn năm dặm, nằm đâu đó ngoài Hồ Lớn – cũng cùng một
dạng như Hồ Coniston nhưng lớn hơn.
“Anh ta đang ở trên hòn đảo này,” vị ẩn sĩ vừa nói vừa chỉ ngón tay trỏ
vào đấy.
Thầy Trừ Tà chăm chú nhìn vào. “Hòn Belle ư,” thầy thốt lên. “Tôi chưa
bao giờ đến đấy cả. Ông biết gì về nơi này không?”