số họ thành công. Họ phát hiện ra rằng việc nhặt các đơn hàng vui
hơn việc nhặt bóng, rằng giành được một hợp đồng hay hơn là
giành được một chiếc cúp.
Việc tôi giới hạn bản thân trong công việc không phải do tôi thích
tiền bạc hay danh tiếng. Tôi thậm chí còn không nghĩ mình muốn
thành công. Tiền bạc chẳng có ý nghĩa gì với tôi, ngoại trừ việc bản
năng người Scotland trong tôi phản đối sự lãng phí. Tôi thậm chí
không muốn để lại nó cho các con của mình. Chúng đã có những gì
tốt cho chúng. Tôi muốn chồng của chúng có niềm vui mà tôi có,
từ việc tự làm nên thành công, vì vậy tôi không cướp đi của họ bất kỳ
sự khích lệ nào.
Tôi đã sống rất lâu trong nghèo khổ, trong tình trạng làm bạn
với cái đói. Khi đi làm, tôi đã phải bỏ hai bữa ăn một tuần để trả
tiền giặt quần áo. Tôi cũng đã sống trong giàu sang, tiêu đến
140.000 đô-la một năm, nó không tạo ra nhiều sự khác biệt. Tôi
hạnh phúc trong điều kiện này cũng không kém gì trong điều kiện
kia. Tôi không nghĩ chúng ta có thể trở lại các điều kiện khiêm tốn
mà không đau khổ, nhưng tôi chắc chắn rằng con người luôn có
thể hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Người hạnh phúc nhất tôi biết là hàng xóm của tôi, người chưa
bao giờ kiếm được quá 125 đô-la một tháng. Từ con số đó, ông tiết
kiệm đủ để xây sáu căn nhà nhỏ để cho thuê, sau đó, ông nghỉ hưu
dựa vào khoản thu nhập đó. Ông dành mùa hè ở bên hồ của tôi, làm
việc trong các khu vườn; mùa đông ông ở Florida. Tôi thường đi
xuống ngôi nhà tranh của ông để học bài học về sự hài lòng.
Trước khi người ta đề ra thuế thu nhập, tôi không hề ghi chép
thu nhập của mình, tôi không quan tâm chúng là bao nhiêu. Chúng
lên hay xuống cũng không ảnh hưởng gì đến tôi. Vợ tôi nhận mọi
khoản doanh thu của tôi và thanh toán tất cả hóa đơn. Tôi chưa bao