hàng xóm để rồi cuối cùng biến mất khỏi lịch sử. Điều đó cho
thấy rằng một bản năng yếu kém không có chỗ tồn tại trong thế
giới của quyền lực. Cái bản sắc tôn giáo-dân tộc kéo dài của người
Do Thái đã tỏ ra mạnh hơn so với hầu như bất kỳ một dân tộc nào
khác trên trái đất.
Khả năng sinh tồn này đã được định hình không phải chỉ do đặc
tính “bướng bỉnh” và “bất chấp” của người Do Thái, cũng không
phải do những o ép đối với họ bằng vũ lực. Thay vào đó, người Do
Thái đã hành động giống như một quốc gia hiện đại, dù rằng đã
mất quyền kiểm soát hoặc hiện diện trong những vùng lãnh thổ đặc
biệt. Thật vậy, việc ngăn cấm tôn giáo đối với người Do Thái bằng
cách pha loãng tập tục của họ hay tích hợp từ tập tục của những dân
tộc khác trong thời cổ đại đã dẫn đến cuộc nổi dậy thành công của
người Do Thái vào năm 166 TCN chống lại người Syria dòng Seleucid
để lập nên vương quốc Hasmoneans độc lập; và ngược lại là cuộc khởi
nghĩa thất bại chống lại người La Mã và dẫn đến sự hủy diệt của
Jerusalem vào năm 70, buộc người dân Do Thái sống cuộc đời lưu
vong trong gần 2000 năm.
Sau khi dịch chuyển trung tâm sinh hoạt từ Vùng đất Israel đến
các cộng đồng Do Thái Diaspora, rời xa khỏi quê hương lịch sử ở
Trung Đông, người Do Thái vẫn tiếp tục cố gắng sinh hoạt như một
quốc gia, mặc dù buộc phải chấp nhận những thiệt thòi của lối
sống tách biệt, đó là sự phân biệt đối xử và thậm chí bách hại dưới
bàn tay của các nước láng giềng. Qua nhiều thế kỷ, trong khuôn
khổ lãnh đạo của các giáo sĩ Do Thái, người Do Thái vẫn duy trì một
hình thức chính phủ cộng đồng của riêng mình, cùng với pháp luật,
lịch, ngôn ngữ, các quan điểm triết học, có thể nhìn thấy trong các
văn bản lớn của giáo hội và đặc biệt là qua đồ ăn, tập quán, và trang
phục quần áo.