rồi lại vụt bay đi mất. Sau những gian nan tưởng như bất tận, đoàn
người lên tới khoảng 60 vạn người và chuyển sang một thế hệ mới,
với tâm trạng mới và tính cách mới. Họ trở nên kỷ luật hơn, thiện
chiến hơn, tư cách hơn, và chỉ thế hệ mới này mới đủ tiêu chuẩn vào
Miền Đất Hứa. Cuối cùng, mang theo Lều Hội Ngộ cùng Hòm Bia
Giao Ước trong đó đựng Mười Điều Răn, và mang theo lời truyền
khẩu về Lề luật mà 300 năm sau ghi lại thành bộ Kinh Torah, đoàn
người vượt sông Jordan vào Miền Đất Hứa Canaan. Dưới sự lãnh
đạo của Joshua, một người thân cận của Moses, người Do Thái đã
chinh phục vùng đất này và định cư ở đó. Trong khi những vùng đất
chung quanh có vua chúa, thờ phụng nhiều thần linh bản địa bằng
ngẫu tượng theo tôn giáo tự nhiên, thì chỉ một mình dân Do Thái thờ
phụng Thượng Đế, biến niềm tin thành giới luật và thoát ra ngoài
sự sùng bái quỉ thần và mê tín.
Hành trình về Miền Đất Hứa và các sự kiện trước đó, ngược trở
lại thời gian của Tổ phụ Abraham, đối với người Do Thái, là một phép
màu. Đây là một thực tế hiển nhiên: một nhóm người lẻ loi, tổ chức
lỏng lẻo, làm sao lại có thể thoát khỏi sự truy đuổi gắt gao của đội
quân của Pharaoh thiện chiến, thoát khỏi cái nóng đến thiêu đốt
của sa mạc, khỏi cái đói cái khát đeo bám hàng ngày trong suốt 40
năm lang thang nơi hoang mạc, nếu không có bàn tay che chở của
Thượng Đế. Người Do Thái đã cảm nhận được sự che chở màu nhiệm
ấy của Ngài trên từng bước đi trong hành trình của họ. Ngay từ ban
đầu, Thượng Đế là người đã dẫn đường, đã che chở và định hình dân
tộc mà Ngài đã chọn, biến nó từ một nhóm người lẻ loi trở thành một
dân tộc quật cường và tràn đầy sức mạnh. Và người Do Thái giáo
ngược lại đã chăm sóc, giữ gìn, đã nuôi dưỡng lòng tin ấy, vào
Thượng Đế, cho đến tận ngày nay.