▪ Không được quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
▪ Không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai, không
được nhận quà hối lộ vì quà hối lộ làm cho nhưng kẻ khôn
ngoan hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công
chính….
Tất cả gồm 613 giới luật với chỉ dẫn chi tiết về những điều
phải làm và những điều không được làm. 613 giới luật đó bao gồm
248 phát biểu tích cực về cách phải làm tương ứng với 248 bộ phận
của thân thể; và 365 lời phát biểu về những điều không nên làm,
tương ứng với 365 ngày một năm theo lịch Do Thái trên cơ sở âm lịch.
Trong 613 giới luật này, một số điều răn chỉ được áp dụng cho nam
giới hoặc nữ giới, một số điều chỉ dành cho các thầy tế lễ thời xưa,
một số điều răn dành riêng cho nông dân trong vùng đất Israel.
Nhiều điều răn chỉ được áp dụng khi Đền thờ Jerusalem còn chưa
bị phá hủy, và ngày nay người ta chỉ phải tuân theo chưa tới 300 điều
răn trong sách này. Vâng lời Thượng Đế tức là tuân giữ Lề luật của
Ngài. Người Do Thái còn tin rằng bên cạnh Kinh Torah được Moses
công khai truyền cho dân Israel, còn có Kinh Torah được Moses
truyền riêng cho các đệ tử thân tín, đó chính là phần huyền học,
hay gọi bí pháp Kabbalah.
Kinh Torah được Moses viết xuống trong những năm lưu lạc
trong sa mạc trên đường tìm về Miền Đất Hứa và trở thành kinh
sách căn bản của Do Thái giáo vào năm 500 TCN dưới triều vua
Solomon. Người Do Thái bắt đầu học Kinh Torah từ lúc nhỏ. Một
thiếu niên Do Thái, đến tuổi 13, được gọi là Bar-Mitzvah (con trai
của Luật). Cậu được xem là người trưởng thành, và vào ngày Sabbath
sau sinh nhật 13 tuổi, cậu có thể đọc Torah trong Hội đường. Thiếu
nữ Do Thái thì trở thành Bat-Mitzvah (con gái của Luật) vào tuổi 12.
Có thể nói Thượng Đế, Hội đường và Kinh Torah là ba thành phần
bất khả phân ly trong đời sống tinh thần của người Do Thái giáo.