sáng tạo chính thống của Israel, rất khó để xác định bất kỳ tác
động đáng kể nào mà Do Thái giáo đã có mặt ở đó. Đây không phải là
do bất kỳ sự khó chịu cố hữu nào của Do Thái giáo đối với phương
tiện truyền thông văn hóa, mà đúng hơn là sự trục trặc vốn không
đổi giữa Do Thái giáo và xã hội Israel chính thống.
Trục trặc này đã tồn tại từ thời đầu của Zionism. Nhiều người
Do Thái giáo Chính thống hoài nghi rằng những người Zionists
đang tìm cách chiếm đoạt địa vị của Chúa trong việc quyết định số
phận của người Do Thái. Do đó, Phong trào Zionism đã buộc phải trải
qua một cuộc đấu tranh triệt để để được chấp nhận là hợp pháp
trong lĩnh vực này của xã hội Do Thái. Mặc dù giáo sỹ Kook và những
người khác đã nhìn nhận Zionism như là một giai đoạn trong quá
trình Cứu thế, và do đó, là một bước quan trọng trong lịch sử Do
Thái, nhiều người Do Thái vẫn không chấp nhận vị trí thần học
này. Tuy nhiên có một số nhỏ những người Do Thái giáo Chính
thống đã mạnh dạn chấp nhận lập trường này và trở thành các
Zionists – gọi là thành phần Zionism Tôn giáo (Religious Zionism).
Những người này luôn phải đối mặt với một số khó khăn. Một mặt,
họ phải bảo vệ vị trí của mình chống lại đa số những người Do Thái
giáo Chính thống; mặt khác, họ phải phòng thủ chống lại các lực
lượng thế tục vốn chiếm ưu thế trong phần lớn các Zionists –
những người luôn mang thái độ thù địch với người Do Thái giáo và
cho rằng thành phần Do Thái giáo thụ động đối với số phận
chung của dân tộc. Do vậy mà thành phần Zionism Tôn giáo luôn
chỉ là một đối tác khá nhỏ trong Phong trào Zionism. Nó có xu
hướng tự hạn chế bản thân để cố gắng bảo vệ lợi ích tôn giáo của
người Do Thái giáo Chính thống hơn là cố gắng đóng góp cho
Phong trào Zionism. Xu hướng này tiếp tục ngay cả sau khi Israel
tuyên bố độc lập năm 1948. Đến tận năm 1967, mặc dù các đại diện
của Zionism Tôn giáo đã có mặt trong hầu hết tất cả các nhánh