nghi, đã áp dụng các phương pháp có lý trí đối với những vấn đề
sâu sắc nhất về đạo đức, chính trị và siêu hình.
Nhiều khía cạnh của văn hóa Hy Lạp như những tiếng chuông
báo thức người Do Thái: sự khoan dung đối với việc khỏa thân nơi
công cộng và đồng tính; sự nảy sinh của những hình ảnh thần
thánh; tinh thần duy lý trí đem đến sự nghi ngờ về mặc khải của
Thiên Chúa (divine revelation); và quan niệm về một nền văn
minh dân chủ. Một số người Do Thái chống lại sự siết chặt của văn
hóa Hy Lạp cổ đại trong nỗi lo sợ rằng nền tảng xác thực của Do
Thái giáo sẽ bị hư hại. Họ lý giải rằng sự đồng hóa sẽ trừ tuyệt
người Do Thái như một dân tộc đặc biệt. Một số khác, tuy nhiên,
chào đón sự tinh tế của văn hóa Hellenism.
Nhà truyền bá tích cực nhất của văn hóa Hellenism chính là
Alexander Đại Đế. Alexander không phải người Hy Lạp, mà là con
trai của Philip, vua của Macedonia, một tỉnh lệ thuộc Hy Lạp nằm ở
vùng Balkan. Philip chinh phục Hy Lạp năm 338 TCN và hai năm sau
đó thì bị ám sát. Khi còn nhỏ, Alexander Đại Đế đã từng theo học
nhà triết học nổi tiếng của Hy Lạp là Aristotle, do vậy ông đặc biệt
nhiệt thành truyền bá văn hóa Hy Lạp tới các dân tộc trong đế chế
của ông. Năm 22 tuổi, ông thề sẽ hoàn thành giấc mơ của cha mình
trong việc mở rộng sang phía đông. Trong 10 năm, đánh đâu thắng
đó, Alexander đã chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á,
Syria, Palestine, Phoenicia, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng
biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày
nay. Nhờ các cuộc chinh phục của Alexander Đại đế mà nền văn
minh Hy Lạp cổ đại được phát triển mạnh mẽ từ Trung Á đến tận
cuối phía tây của biển Địa Trung Hải, mở đầu cho nhiều thế kỷ
định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi,
một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa – Hellenism – như đã
nói trên.