cook the calf in its mother’s milk” (Deuteronomy 14:21 – “Anh em
không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con”), thì Khẩu Luật sẽ
phải dựa trên chỉ dụ này mà dựng lên cả một câu chuyện giải thích
như thế nào và tại sao người ta không thể nấu lẫn sữa và thịt cùng
với nhau.
Theo phương thức như thế, các Rabbi thường cắt nghĩa một
điều luật hay điều răn trong Kinh Torah song song với một truyền
thống được truyền miệng. Khi trong Kinh Torah có những từ ngữ
chưa được giảng giải, những nghi thức không có hướng dẫn thì người
Do Thái mặc nhiên cho rằng họ đã biết thông qua kiểu truyền
miệng. Cách giải thích song song này dần dần trở thành Khẩu Luật.
Kết quả là trong vài ba thế kỷ sau sự sụp đổ của ngôi đền
Jerusalem, để tránh bị thất lạc, nhiều phần trong Khẩu Luật được
các Rabbi sưu tập và biên soạn lại thành một bộ sách quý gọi là
Talmud. Đây là văn bản trung tâm của các Rabbi.
Mishna (hay Mishnah)
Về cấu trúc, Talmud gồm hai bộ: Mishna được soạn vào thế
kỷ 2, và Gemara được soạn vào thế kỷ 5. Mishna là bản tóm lược
đầu tiên bằng văn bản của Khẩu Luật, thực chất tóm tắt tất cả
những tranh luận của các thế kỷ trước từ thời Ezra và dựa trên đó
định ra bổn phận và trách nhiệm của người Do Thái trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống. Rabbi Yehuda HaNasi là người đầu tiên biên
soạn văn bản này vào năm 200. Câu hỏi là tại sao Rabbi Yehuda lại
quyết định viết Khẩu Luật thành văn bản thánh ngay từ lúc đầu?
Một số cho rằng rất nhiều học giả đã hy sinh trong hai cuộc nổi
dậy vì vậy việc viết Khẩu Luật thành văn bản đơn giản là để nhằm
tránh sự thất lạc trong tương lai.