thang, chân bước không một tiếng động trên sàn trải thảm. Rồi hắn đẩy cửa
bước vào căn phòng áp mái. Hắn đi giày da đen, và chúng bóng lộn đến nỗi
nom như hai chiếc gương tối sẫm: ta có thể thấy mặt trăng phản chiếu trên
đó, một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ xíu.
Mặt trăng thật thì đang chiếu qua ô cửa sổ có hai cánh. Ánh trăng không
sáng, lại bị màn sương che mờ, nhưng gã đàn ông tên Jack không cần nhiều
ánh sáng. Ánh trăng là đủ rồi. Hắn chỉ cần có thế.
Hắn có thể trông thấy hình dáng của đứa bé nằm trong nôi, đầu, chân tay,
thân mình.
Cái nôi có hai bên thành cao làm bằng các thanh gỗ mỏng, để ngăn đứa bé
trèo ra ngoài. Jack cúi xuống, giơ cao bàn tay phải, bàn tay đang cầm con
dao, và hắn nhằm vào vùng ngực...
... rồi hắn buông tay xuống. Hình thù trong cái nôi chỉ là một con gấu nhồi
bông. Không thấy đứa bé đâu.
Mắt gã đàn ông đã quen với ánh trăng mờ ảo nên hắn không muốn bật
đèn. Và dù sao thì ánh sáng cũng chẳng quan trọng. Hắn có những kỹ năng
khác.
Gã đàn ông tên Jack hít ngửi không khí. Hắn phớt lờ những mùi đã theo
hắn bay vào phòng, loại bỏ những mùi hắn có thể bỏ qua, chỉ tập trung vào
mùi của thứ hắn đang tìm kiếm. Hắn có thể ngửi thấy mùi đứa trẻ: một thứ
mùi như mùi sữa, giống như mùi bánh quy rắc sô cô la, cùng với mùi chua
chua của cái tã ban đêm đã bị ướt. Hắn có thể ngửi thấy mùi đầu gội đầu trẻ
em trên tóc đứa bé, và một thứ gì đó nho nhỏ, làm bằng cao su - một món đồ
chơi, hắn tự nhủ, rồi sau đó nghĩ lại, không, một cái gì đó để ngậm - mà đứa
bé đang cầm.
Đứa bé đã ở đây. Nó không còn ở đây nữa. Gã đàn ông đánh hơi lần theo
dấu vết xuống tầng dưới của căn nhà cao, hẹp. Hắn kiểm tra phòng tắm, bếp,
tủ đựng khăn, và cuối cùng là gian sảnh ở tầng trệt, ở đó chẳng có gì ngoài
mấy chiếc xe đạp của gia đình, một đống túi đi chợ trống không, một cái tã
rơi, và những dải sương lạc đã lặng lẽ cuộn xoáy chui vào nhà qua cánh cửa
mở ra phố.
Gã đàn ông tên Jack liền thốt lên một âm thanh khe khẽ, một tiếng gầm gừ