Tôi không hãi những người có bộ mặt dữ tợn; nhưng tôi lại run sợ
trước tất cả những kẻ có bộ mặt hả hê. Chẳng thà tôi đứng trước nòng súng
của Căngrôbe
hồi tháng Chạp.
Đến lượt tôi, ông Fiđen hỏi:
“Anh muốn gì? Anh đã dạy học bao giờ chưa? Lý lịch nghiệp vụ của
anh ra sao? Anh có giấy chứng nhận gì không?”
Ông hỏi tôi, giọng cáu kỉnh, ông có vẻ đau lòng vì phải sống trên lưng
những người nghèo khổ: ông cũng thấy họ thật ngu xuẩn nghĩ đến việc
kiếm mẩu bánh mì mốc do ông tìm hộ!
Giấy chứng nhận của tôi ư? Tôi không có! Tôi không dám nói là tôi đã
dạy ở chỗ Ăngtêta! Tôi không biết trả lời ra sao; tôi liền đưa ra mảnh bằng
tú tài của tôi. Tôi viện thêm nghề nhiệp của cha tôi. Tôi sinh ra trong một
gia đình Đại học.
“À! Thầy anh là giáo sư! Đáng lẽ anh nên ở lại trường của thầy anh,
xin làm chân giám thị, còn hơn là thối rữa ra trong nghề dạy tư.”
Thế nhưng tôi không thể nói với ông rằng tôi ghét cái nghề giáo sư ấy,
lại càng không thể nói rằng tôi không muốn tuyên thệ; ông sẽ tống cổ tôi ra
cửa như một thằng ngốc hay một thằng điên, và ông làm vậy là phải…
Cuối cùng ông ném ra cho tôi, như một cái xương, lời đề nghị này:
“Ở trường ngoại trú phố Xanh-Rôc, có một chỗ từ tám giờ sáng tới
bảy giờ tối. Nếu anh muốn bắt đầu ở đó để tập nghề?…
- Tôi rất muốn.”
Tôi khai tên tuổi và địa chỉ.
Tôi đi ra với một bức thư gửi cho ông Bơnoazê ở phố Xanh-Rôc. Khi
vào phố đó, tôi va phải lão mù ăn xin ở nhà thờ, người béo múp, chân đi
giầy vải lót lông, mình vận chiếc áo nịt bằng len thô, đôi môi bóng nhẫy vì
món xúp béo vừa mới ăn xong, hơi thở còn vương mùi bắp cải thơm theo
gió bay thoảng vào mũi tôi.