“Cậu phòng thủ quá đấy,” ông ấy nói bằng một giọng tiếng Anh rất
nặng. (40 năm ở Toronto mà vẫn nghe như Charles de Gaulle vậy.) Tôi
nhấn mạnh là tôi không như thế và lại phòng thủ kỹ hơn. Giải thích những
thứ không cần phải giải thích, tự bảo vệ mình khỏi những lời chỉ trích chưa
được giải tỏa.
“Chỉ có một khoảng thời gian dành cho việc học thôi. Sau đó thì đã
quá muộn rồi,” Bouissac nói với cái kết không một chút vị tha kiểu Pháp.
Quá muộn ư? Tôi tự hỏi, liệu có phải ý ông ấy là việc học cũng giống
như việc thành thạo một ngôn ngữ, người ta phải “biết” nói trước một độ
tuổi nhất định (12 hoặc 13 gì đó) nếu không, người ta sẽ không bao giờ nói
được ngôn ngữ đó? Thoáng lo âu hiện ra trong đầu tôi. Liệu chúng tôi có
nên gửi Jesse vào một trường quân sự không?
Mất hứng thú (và thể hiện điều đó ra mặt) về câu trả lời hoảng hốt của
tôi, Bouissac lang thang tìm kiếm cho mình một đôi găng tay dùng để bắc
bánh ra khỏi lò. Tối hôm đó, ông ấy chủ trì một bữa tiệc cho các nhà ký
hiệu học quốc tế, một đám người ngu ngốc tự mãn. Cuộc chạm trán khiến
tôi ngạc nhiên một cách kỳ lạ. Tôi cảm thấy như thể mình bị phản bội, đột
ngột bán đứng chính mình. Liệu tôi có đang che giấu khuyết điểm của Jesse
hoặc của chính mình hay không? Liệu có phải tôi đang khoác lác như một
thằng nhóc lên mười trên sân trường hay không? Liệu điều đó có rõ ràng
hay không? Có lẽ có. Nhưng tôi không muốn có ai đó nghĩ rằng tôi đã làm
hư Jesse. (Tôi không thể rũ bỏ được hình ảnh Jesse lái xe, phì phèo khói
cần sa.)
Có ba cô bé mới lớn ăn diện đi lướt qua, để lại mùi kẹo cao su và
luồng khí lạnh. Tôi nghĩ, có thể chúng tôi đã đánh giá quá cao sự ảnh
hưởng của mình lên con cái. Chính xác thì người ta làm thế nào để có thể
buộc một đứa trẻ mới lớn, cao đến gần l,9m làm bài tập về nhà? Không, cả
mẹ nó lẫn tôi, đều đã đánh mất cái quyền đó.