điên vào thành bát cho đến khi miệng nứt toác ra. Chẳng ai biết tại sao
chúng lại làm thế. Có thể cố tìm đường thoát, hoặc cố chống cự, hoặc
chúng đang phát điên lên vì bị giam hãm trong một cái bát chật chội.
Có đôi lần tôi thấy con songkrarn. Đó là những con giun đỏ nom giống
sợi chỉ bò thành từng bầy như những đoàn thương lái dọc theo dòng nước
vào mùa khô. Thoạt nhìn trông chúng giống con rắn, hoặc những con trăn
huyền bí trong một câu chuyện cổ. Nếu ta ném thứ gì đó vào chúng, chúng
lập tức tán loạn như ong vỡ tổ, nhưng ngay sau đó nhanh chóng tụ lại tiếp
tục cuộc hành trình bất tận.
Có một loài gắn liền với căn nhà, đó là thằn lằn. Tôi chưa bào giờ đếm
xem có bao nhiêu con, nhưng tôi biết là rất nhiều, con sau to hơn con trước,
và tất cả đều xấu xí, đáng sợ không thể tả nổi. Chắc chúng dọn tới đây từ
lúc nhà mới xây. Ban đêm chúng lần mần bò khắp quanh tường và trên trần
nhà, ban ngày thì nấp sau các cột và cửa sổ. Chỉ một cái vẫy đuôi hay tiếng
kêu rùng rợn của chúng đã đủ làm hai anh em tôi run bắn lên vì sợ và gặp
ác mộng.
Bởi bọn thằn lằn là những tên phản diện hung ác nên người hùng của
chúng tôi, hoặc có thể gọi nhà vô địch của chúng tôi thời ấy, là Già Jan. Già
Jan chèo thuyền kiếm sống. Già quấn một cái xà rông cũ quanh hông và vắt
chiếc khăn ca rô qua vai hoặc buộc quanh đầu khi chèo thuyền. Tôi chưa
bao giờ thấy Già mặc áo. Nhưng những hình xăm đủ kiểu trên bộ ngực răn
reo và đôi bắp tay đã nhão khiến Già trông thật cổ xưa. Khi không có
khách, Già Jan thường neo thuyền ngồi nghỉ trên căn chòi bên bến đỗ. Có
lúc Già uống rượu gạo và nhấm quả me, có lúc Già lơ đãng nhìn dòng
nước, lúc khác lại ngêu ngao những khúc dân ca về tình yêu và mất mát.
Già Jan không đi đâu mà thiếu cây ba toong bịt thiếc của mình. Người
ta kể rằng thời trai trẻ Già đã đập vỡ đầu không biết bao nhiêu kẻ, nhưng
mà vào thời điểm mà tôi đang nhớ tới thì Già chỉ dùng nó để bước cho