- Khi nhớm tay lên thấy mạch đi mau, đè tay xuống thấy chậm nghĩa là
trên thiệt dưới hư, ngoài thiệt trong hư, tất phải có chứng khuyết nghịch mà
bệnh ở đỉnh đầu.
▪ Nếu nhớm tay lên thấy mạch chậm, đè tay xuống thấy mau, nghĩa là
trên hư dưới thiệt, tất có chứng sợ gió.
▪ Nếu đè xuống tới xương thấy mạch khí suy yếu, tất có chứng thắt
lưng, xương sống nhức, bệnh tê.
- Nếu da chỗ chẩn mạch hơi mềm mà mạch rít, tất có triệu chứng toàn
thân boải hoải. Lúc nằm yên mà mạch lại thạnh tất có triệu chứng mất máu.
Da chỗ chẩn mạch rít mà mạch hượt, tất có triệu chứng nhiễu mồ hôi. Da
chỗ chẩn mạch lạnh mà mạch quá nhỏ, tất có triệu chứng đi tả. Da chỗ chẩn
mạch thường nóng mà mạch thô, tất có triệu chứng nóng trong bụng.
- Hai bộ Thốn trầm nhược hư tiểu là phần lạc hư.
▪ Nếu hai bộ Thốn Hồng Đại Sát nghịch là lạc thiệt.
▪ Nếu bệnh ngoại cảm thương hàn mà là bệnh ở khí, mạch thường 6 bộ
như nhau, hoặc Phù, hoặc Khẩn, hoặc Huyền, hoặc Sác…
▪ Nếu là bệnh ở kinh thì phải mạch một tay lớn một tay nhỏ, tay trái là
kinh dương, tay phải là kinh âm. Nếu dương thiệt thì âm hư, nếu âm
thiệt thì dương hư.
▪ Nếu bệnh ở tạng phủ thì mỗi bộ đều tùy chỗ bệnh mà có sắc thái
riêng.
▪ Các mạch Phù (nổi), Hượt (trơn), Trường (dài) đều thuộc mạch
dương.
▪ Các mạch Trầm (chìm), Đoản (ngắn), Sắc (rít) đều thuộc mạch âm.
Đều căn cứ vào vị trí của kinh mà định bệnh thuận nghịch vậy.
Phù, Hượt, Trường là dương. Trầm, Đoản, Sắc là âm. Căn cứ vào đây để
chẩn bệnh là đã nắm được chỗ yếu. Nhưng lại phải phân các kinh để định
thuận nghịch. Thí dụ: Thuộc về Thận thì mạch phải chìm mà lại nổi, Tim
mạch phải nổi mà lại chìm, thế là nghịch. Đã nắm vững định tượng của