không còn kịp, có thể nào cho Sác là nóng, vọng dụng vị đắng lạnh mà trị
được sao!
4. TRÌ
Là chậm, một thở ra hít vào không đủ 4 nhịp, nhóm tay lên, đè tay xuống
đều thấy chậm. Phàm mạch Đợi, Sắc, Kết, Phục đều thuộc loại Trì. Nhưng
mạch Sắc thì hoặc 3 nhịp hoặc 5 nhịp không chỉnh. Mạch Hưỡn thì đi đến từ
hưỡn khoan thai.
Trì là mạch hư hàn, khí dương không trỗi dậy nên thấy mạch trì trệ. Nếu
Phù Trì thì là biểu hàn, Trầm Trì là lý hàn. Trì Sắc là huyết bệnh, Trì Hượt là
khí bệnh. Nếu Trì kèm theo Hượt Đại thì phần nhiều là phong đàm, đầu tê.
Trì mà kèm Tế Tiểu là chơn dương yếu kém, hoặc âm hàn giữ chứa mà làm
đi tiêu chảy, hoặc nguyên khí không sung túc ở biểu làm lạnh run, co vặn.
Tóm lại đều là nguyên khí hao tổn, không nên vọng cho công kích.
Nhưng cũng có nhiệt tà kết lại ở trong, khí lạnh uất ở ngoài mà thấy Khí
Khẩu mạch Trì. Cũng có chứng Dương Minh đầy đủ mà thấy mạch Trì hữu
lực. Cũng có Thái Dương mạch Phù, vì lầm có chứng kết hung, cho thuốc
sai mà hiện mạch Trì. Lại có trường hợp dư nhiệt chưa hết, mà mạch phần
nhiều trì trệ. Tóm lại ở chỗ, phải biết mạch động thế nào và xét chứng để
phân hư thiệt, chớ đâu có thể hễ thấy mạch Trì liền nhận cho là lạnh, mà
không nghiên cứu xem có kèm theo Hượt Sắc, hư thiệt khác nhau được sao!
5. TRƯỜNG
Nghĩa là dài, là thấy suốt dưới ngón tay, trên đến Ngư Tế, dưới suốt Xích
Trạch, qua khỏi bản vị, đè xuống ba bộ một lượt, nhớm tay lên đều thấy thế.
Phàm mạch Thiệt, Lao, Huyền, Khẩn đều thuộc loại mạch Trường. Nhưng
mạch Đại nhớm lên thấy thạnh to, đè xuống thấy thiếu sức.
Mạch Trường là mạch của bệnh khí, phải trị theo khí, là hiện tượng không
bệnh. Nhưng phải Trường mà hòa hưỡn mới là không bệnh. Nếu Trường mà
Phù thịnh trong trường hợp ngoại cảm là khí tà ở kinh mới đang thịnh, còn