Nội thương mà mạch Thiệt, Hồng, Hượt thì có các chứng bệnh hỏa bốc,
bệnh thấp, bệnh trừng hà, huyết ứ, đàm ẩm, bụng đau, suyễn nghịch v.v… có
thể xét. Nếu Thiệt mà Trầm Huyền thì có các chứng lạnh ngăn trệ có thể xét.
Lại theo các chứng bệnh thiệt của khí huyết kèm để mà xem, thì bệnh tình ở
ta không có bệnh nào có thể ẩn khuất. Nhưng đã nói mạch Thiệt thì còn có
chỗ nào nói bệnh hư, đã có hiện tượng hư thì không thể gọi là Thiệt. Tóm
lại, ăn thua ở thầy thuốc chẩn lấy khí tượng của mạch, xem có hẳn Thiệt hay
không Thiệt mà thôi.
12. HƯ
Nghĩa là vơi thiếu, là nổi to mà mềm, đè xuống không thấy dội, như sờ tìm
lông gà. Lại đè xuống tới hết mức, lâu lâu thấy không thiếu không tan. Phàm
Khâu, Nhu, Trì, Sắc đều thuộc mạch Hư. Nhưng mạch Khâu thì ở giữa bọng
đè xuống lần thấy; mạch Sắc thì mềm yếu, vô lực, nhớm tay lên liền đến;
mạch Tán thì tản mác vô căn, nặng tay đè lâu tuyệt không thấy đến.
Hư là khí huyết trống thiếu nên Phù Hư là khí suy. Trầm Hư là hỏa thiếu.
Hư Trì là hư hàn. Hư Sác là nước khô. Hư Sắc là nước kém. Hư Huyền là
Thổ suy, Mộc thịnh. Hư mà bộ Xích Vi Tế, Tiểu là vong huyết, thất tinh. Hư
Đại là khí hư không liễm, quan hệ ở chỗ phân biệt cho rõ để thi trị thì mới
không sai lầm. Nhưng tóm lại không thể dùng thổ, dùng hạ để biến hư thêm
nữa.
13. KHẨN
Nghĩa là săn, qua lại săn cứng tựa như se dây, tuy thiệt mà không cứng.
Phàm Huyền, Sác đều thuộc loại Khẩn. Nhưng Huyền thì đầu thẳng như dây
cung. Còn mạch Lao, mạch Cách thì mạnh, căng, dội ngón tay.
Mạch Khẩn là âm tà bế ở trong. Nếu là Phù Khẩn thì phải thấy có đầu
nhức, phát sốt, sợ lạnh, ho hen, mũi nghẹt, đau mình, mất ngủ của bệnh biểu.
Nếu thấy Trầm Khẩn thì phải có trướng đầy, khuyết nghịch, ói mửa, tiêu
chảy, Tim hông sườn đau nhức, phong giựt cùng là bệnh hãi, bệnh tịch của