Huyền. Nhưng mạch Khẩn thì săn gấp hữu lực, giống như dây đánh thẳng
chạm dưới ngón tay. Còn mạch Cách thì huyền, đại mà sác.
Huyền là hiện tượng huyết khí không hòa, khí nghịch tà thắng, tích tụ
trướng đầy, nóng lạnh, hông sườn đau, hoặc sốt rét, kiết lỵ, bệnh sán khí, tê
v.v... nhưng tóm lại đều bởi mộc thịnh, thổ suy, thủy kém. Chỉ cần xem hiện
tượng Huyền nhiều hay ít để biết được vị khí mạnh hay yếu. Huyền Thiệt,
Huyền Hư để biết khí tà hư thiệt. Huyền Phù, Huyền Trầm để biết biểu lý
âm dương. Huyền ở Thốn hay ở Xích để biết khí thế của bệnh thăng trầm.
Không luận bệnh gì, thấy kèm theo mạch Huyền, đều cần phải căn cứ vào
hòa hưỡn có thần, không thiếu vị khí, tuy Huyền không ngại. Nếu Huyền mà
cứng nhỏ, mạnh, thẳng là không có vị khí, há có thể trị được sao!
18. NHƯỢC
Nghĩa là bạc nhược, tức là trầm tế, nhuyến, nhược, nhớm tay lên thấy như
không, đè xuống mới bắt gặp, nhỏ yếu rõ ràng. Phàm Vi, Nhụ, Tế, Tiểu đều
thuộc loại mạch Nhược. Nhưng mạch Vi thì muốn mất, mạch Nhụ đè xuống
như không thấy. Mạch Tế thì phần phù phần trầm đều thấy Tế.
Mạch Nhược là khí dương suy vi. Phàm thấy mạch này phải nên dùng ôn
bổ để củng cố phần dương, bồi bổ vị khí. Nhưng phải kèm theo hượt mà
hòa, mới nên đoán là vị khí chưa nguy. Nếu Nhược mà kèm theo Sắc và gặp
bạo bệnh của tuổi trẻ, thoạt thấy mạch này là khí huyết đều bại, phần nhiều
khó trị.
19. HƯỢT
Nghĩa là trơn, qua lại chảy thông, nhớm tay lên thấy Phù Khẩn, đè tay xuống
thấy Hượt Thiệt. Phàm mạch Khâu, Đại, Hồng, Thiệt đều thuộc loại mạch
Hượt. Nhưng mạch Thiệt thì bựt bựt dội ngón tay, mạch Khẩn thì qua lại săn
cứng, mạch Động thì thấy ở một bộ, mạch Tật thì số nhịp quá mau.
Mạch Hượt là đàm nghịch, ăn uống ngăn trệ, ói mửa nghịch lên trên, ngăn
đầy, sưng thũng, là hiện tượng ngăn nghẹt, đầy lắp. Nhưng cũng phải lấy