kiểm Chà Dơ - Bổ Túc, phía bắc có lộ kiểm từ trảng Sóc Xoài đến bờ sông
Tha La. Tuy bị chất độc hóa học làm rụng lá cây, nhưng rừng còn trú ém
được quân, bìa trảng vào sâu năm trăm mét có nhiều hầm hào, căn cứ trú
quân tốt.
Từ thực tế trên cho thấy phạm vi tiến công rộng, lực lượng địch đông, hệ
thống bố phòng tuy dã chiến nhưng đã hình thành lớp lang phòng thủ, hỏa
lực ken dày. Tình hình địch luôn biến động, thủ đoạn địch luôn thay đổi.
Trong khu vực giữa trảng rất khó nắm (có những điều ta chỉ biết được trong
và sau trận đánh), nên khó tránh khỏi lúng túng trong xử lý khi bước vào
chiến đấu.
Một khó khăn nữa, cũng phải tính đến. Mặc dầu sư đoàn đã bố trí thế
đánh mục tiêu chọn sẵn, đã đưa lực lượng vào trước ém sẵn, song không thể
tiến công khi địch chưa kịp đổ quân hoặc chúng vừa chạm đất, mà phải bố
trí từ xa, thực hành vận động tập kích. Vì trước khi đổ quân, địch tung thám
báo thăm dò; dùng các phương tiện trinh sát hiện đại phát hiện đối phương;
dùng phi pháo bắn phá, thả bom trải thảm dọn bãi, sát thương đối phương,
sau đó mới đổ quân. Đây là một đặc điểm khác với đánh quân Pháp đóng
quân dã ngoại hồi kháng chiến chín năm. Ở đây, trong trận Đồng Rùm, khi
Mỹ đổ quân, Trung đoàn 2 đang ở Chà Dơ, cách Đồng Rùm năm ki-lô-mét
về phía đông nam, Trung đoàn 16 đứng cách Đồng Rùm bảy ki-lô-mét về
phía bắc, một khoảng cách hoàn toàn bất lợi cho bên tiến công, song không
còn cách nào khác vẫn phải chấp nhận vì những lý do như đã kể trên.
Do yêu cầu phối hợp tác chiến đồng bộ của chiến dịch, nếu kế hoạch
triển khai chiến đấu chậm, sẽ lại như trận đánh Đồng Pan! Hơn thế nữa, ở
đây vào thời điểm này còn lặp lại sai lầm như thế, thì tình hình càng trở nên
phức tạp. Địch có điều kiện củng cố khu vực chiếm đóng vững chắc, biến
nơi đây thành căn cứ trung tâm hành quân dã chiến, đánh tỏa ra các khu vực
tây đường 4, đông lộ Trắng, phối hợp với cánh quân phía bắc từ Hớn Quản
đánh qua, tiến vào trung tâm căn cứ khu B.