Một ngày sau khi làm chủ Kiến Đức, điện của Bộ chỉ huy Miền lệnh cho
chúng tôi bàn giao cho tiểu đoàn địa phương bảo vệ khu vực mới giải
phóng, các đơn vị tham gia trận đánh đi nhận nhiệm vụ mới.
Trong vòng mười ngày kể từ ngày 5/11/1973, với lực lượng vừa phải, ta
tổ chức tiến công tiêu diệt yếu khu Bù Bông, chi khu quân sự Kiến Đức, áp
sát thị xã Gia Nghĩa, uy hiếp chi khu Bù Đăng (Phước Long), giải phóng
một vùng đất đai rộng lớn từ ngã ba Đắc Song (Quảng Đức) nối liền với Bù
Gia Mập, Bù Đốp, Lộc Ninh (nơi có căn cứ Bộ chỉ huy quân Giải phóng
miền). Ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 22 ngụy, diệt và bắt sống 1.500 tên
địch, thu 300 súng các loại, có 3 khẩu pháo 105 ly và 20 xe bọc thép. Đây là
đợt hoạt động thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, đánh vào một
khu vực hiểm yếu của địch, làm lung lay tuyến phòng ngự nam Tây
Nguyên, có giá trị tạo thế tạo lực rất quan trọng trong thời điểm lúc bấy giờ.
Vùng giải phóng Đông Nam Bộ, đặc biệt là khu vực đầu mối vận tải, nối
giữa tuyến chiến lược của đoàn 559 với tuyến chiến dịch các đoàn hậu cần
Miền được mở rộng, mở ra thời kỳ mới - đường ta mở trên đất ta.
Tháng 5 năm 1974, địch mở cuộc hành quân lớn, dài ngày nhất từ khi ký
Hiệp định Paris nhằm lấn chiếm vùng tây Bến Cát tạo một tuyến giữa
(trung tuyến) hoàn chỉnh bảo vệ vững chắc phía bắc Sài Gòn bị ta chọc
thủng sau đợt ba chiến dịch Nguyễn Huệ. Sau khi hoàn thành kế hoạch này,
tham vọng của Nguyễn Văn Thiệu là sẽ đốc quân tái chiếm Lộc Ninh hoặc
một nơi khác thuộc vùng giải phóng của ta ở Đông Nam Bộ vì cuối 1973
Thiệu đã tuyên bố “chiến tranh đã trở lại”, đầu 1974 y tung ra “kế hoạch
quân sự Lý Thường Kiệt” với sự tính toán chủ quan rằng trong cả năm 1973
“Việt cộng” (chỉ Quân giải phóng) không còn đủ lực lượng mở các cuộc
tiến công lớn; rằng công việc “bình định” và các cuộc hành quân “tràn ngập
lãnh thổ” của “quân lực Việt Nam cộng hoà” (chỉ quân đội ngụy Sài Gòn)
đã mang lại nhiều kết quả, vân vân và vân vân.