Ngày 18 tháng 4, quân đoàn 3 ngụy phải dùng trực thăng bốc một phần lực
lượng từ Xuân Lộc về Biên Hòa - Trảng Bom để lập tuyến mới. Và ngày 20
tháng 4, tàn quân còn lại ở Xuân Lộc vội vã rút bỏ Xuân Lộc theo đường số
2 qua Bà Kịa trở về Biên Hòa.
Đến sáng 21/4/1975, những tuyến phòng thủ cuối cùng của “Quân lực
Việt Nam cộng hoà” (tức quân ngụy) ở Xuân Lộc sụp đổ tan tành, một
trong bốn tiểu đoàn còn sống sót của sư đoàn 18 với viên tư lệnh của nó là
chuẩn tướng Lê Minh Đảo được máy bay lên thẳng tới kéo ra khỏi đống
gạch đổ nát”(13).
(13) Trần Mai Hạnh, Sụp đổ và tự thú, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1985, trang 97.
Ngày 21 tháng 4, được tin Xuân Lộc thất thủ, Uây-en, tác giả của công
trình lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc đã thốt lên: “Thế là hết! Tình hình quân
sự là tuyệt vọng.” Hai ngày sau, ngày 23 tháng 4, trong một bài diễn văn
đọc tại trường đại học New Zealand, tổng thống Pho đã ngậm ngùi nói:
“Chiến tranh đã kết thúc với Mỹ, không thể giúp đỡ người Việt Nam được
nữa, họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang đợi họ.”
Xuân Lộc, cái chốt xung yếu cuối cùng của những gì còn lại của ngụy
quyền Sài Gòn bị nổ tung, “Sài Gòn sau những ngày Xuân Lộc chỉ còn là
những phân cảnh cuối cùng của một màn kịch ảm đạm. Thành phố bị chấn
thương nặng, sống ngắc ngoải trong tình cảnh căng như mặt trống và tiếng
đại bác (của Quân giải phóng) gầm mỗi lúc một gần.” Thành phố vừa hết
lệnh giới nghiêm, hàng trăm, hàng ngàn người đã chen chúc, xô đẩy ở các
cửa ngân hàng để rút tiền chạy đi nước ngoài. Giá một tấm hộ chiếu có thị
thực từ 500 đô la tăng vọt lên 5.000 đô la; giá một chiếc thuyền nhỏ có thể
đi biển được tăng vọt tới 10.000 đô la.
“Xuân Lộc được giải phóng. Cách cửa phía đông Sài Gòn đã mở sẵn
đón lực lượng Quân đoàn 2, Quân đoàn 4, sư đoàn 3 (Quân khu 5) vào trận