mình cho cái ảo tưởng cuối cùng về sự sống và tình yêu này bấy nhiêu, với
ảo tưởng đó họ toan che mắt tôi khỏi bức tường nhà Meier và tất cả những
chữ đã được viết ngô nghê, tỏ tường trên bức vách đó, như thế họ lại càng
làm cho tôi khốn khổ bấy nhiêu đó sao? Nào tôi có sá gì cái thiên nhiên của
mấy người, cái công viên Pavlovsk của mấy người, cái bầu trời xanh và
những khuôn mặt phè phỡn của mấy người, khi mà cuộc vui bất tận này đã
bắt đầu, khi vừa loại bỏ chỉ một mình tôi ra ngoài? Tất cả vẻ đẹp này nào
có ý nghĩa gì với tôi khi mà từng phút, từng giây tôi phải biết, tôi bắt buộc
phải biết rằng ngay cả con muỗi bé tí tẹo vo ve cạnh tôi trong ánh nắng này
cũng đang được dự cuộc vui và hội ca xướng của thiên nhiên, nó biết chỗ
của nó trong thiên nhiên, nó yêu mến cảnh đó và thấy sung sướng, còn có
mỗi mình tôi là kẻ bơ vơ, lạc loài và chỉ vì hèn nhát nên mãi đến bây giờ tôi
mới dám thú nhận như vậy! Ôi! Tôi biết rõ hoàng thân và tất cả mọi người
đều muốn đưa tôi đến chỗ từ bỏ những ngôn từ “xảo quyệt và gian ác” này;
nhân danh nghi thức, nhân danh sự vinh quang của luân lý đạo đức, họ
muốn tôi ngâm nga những đoạn thơ cổ điển nổi tiếng của Millevoye:
O, puissent voir votre beauté sacrée
Tant d’amis soui’ds à mes adieux!
Qu ‘ils meurent pleins de jours,
que leur mort soit pleurée,
Qu’un ami leur ferine les yeux
Hỡi bè bạn câm điếc trước cái chết của ta
Vẻ đẹp thánh thần của các anh người đời rồi thấy rõ!
Chúc họ sống hết tuổi trời
và ra đi giữa những dòng lệ rỏ
Và mong có bàn tay bạn hiền
vuốt mắt họ lúc đi xa.
Nhưng hãy tin tôi đi! Hãy tin tôi đi! Hỡi những kẻ hồn nhiên, ngây thơ
kia! Hãy tin rằng trong thi khúc đầy vẻ khuyên dạy kia, trong lời chúc phúc
kiểu bác học của cõi đời viết bằng văn vần Pháp kia, đã chứa đựng bao