khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày
bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi
cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.
“Tụi mình tắt đèn đi nha?” Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau
hàng cột.
Charlie lần chần. “Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa
Asa ra tới bờ sông.”
“Nếu tụi mình tìm được Asa,” Billy lẳng lặng nói.
Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc,
đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong
khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại.
Nhưng nó biết là không thể. “Đi, “ nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng
bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.
Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp.
Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ
chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến
nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.
“Cứu!” Billy thét rùm.
Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường.
Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất
rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.
“m thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố,” giọng Billy run rẩy.
“Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó,” Charlie lầm bầm. “Cây đèn của anh
tiêu là cái chắc.”