quá tởm, và Wilbur thì phải kể câu chuyện hết lần này đến lần khác, rằng
thằng bé nhà Arable đã cố bắt Charlotte thế nào, và cái mùi quả trứng thối
xua nó đi đúng lúc ra sao. “Chính cái quả trứng thối đó đã cứu mạng
Charlotte,” Wilbur nói.
Ngỗng cái thấy tự hào vì đã có góp phần trong sự việc nguy hiểm này. “Tôi
rất vui vì quả trứng đó đã không nở,” nó kêu quàng quạc.
Templeton thì dĩ nhiên là khốn khổ vì bị mất quả trứng yêu dấu của gã.
Nhưng gã không kìm được việc khuếch khoác. “Của đi thay người đấy mà,”
gã nói với một giọng cáu kỉnh. “Một con chuột chẳng bao giờ biết được khi
nào thì một thứ trở nên hữu dụng. Nên tôi đây chẳng vứt đi thứ gì.”
“Được rồi,” một trong số các con cừu nói, “cả cái vụ này đều là hay và tốt
cho Charlotte, thế còn với chúng ta đây thì sao? Cái mùi này không thể nào
chịu nổi. Ai muốn sống trong một cái chuồng sặc mùi trứng thối cơ chứ?”
“Đừng lo, các người sẽ chóng quen thôi,” Templeton nói. Gã ngồi dậy và
gục gặc kéo những sợi râu dài vẻ thông thái, rồi chuồn đi làm một chuyến
thăm thú đống rác.
Khi Lurvy xuất hiện vào ban trưa mang theo một xô cám cho Wilbur, anh ta
đột ngột đứng lại cách chuồng lợn vài bước chân. Anh ta hít hít không khí
và nhăn mặt.
“Cái gì gớm thế nhỉ?” anh ta nói. Đặt cái xô xuống, anh ta nhặt lấy cái que
thằng Avery làm rơi để chọc cho cái máng lật lên. “Chuột!” anh ta nói.
“Phù! Mình lẽ ra phải biết thể nào cũng có con chuột làm tổ dưới cái máng
này. Sao mình ghét chuột thế!”
Và Lurvy kéo cái máng của Wilbur qua khoảng sân và hất ít đất vào tổ
chuột, chôn cái trứng vỡ cùng với tất thảy những tài sản khác của
Templeton. Rồi anh ta nhấc cái xô lên. Wilbur đứng trong máng, đói nhỏ