mang tính hướng nội nhiều hơn, có sự kiểm soát của nhà nước nhiều hơn. Họ
được gọi là “những người ủng hộ dân tộc chủ nghĩa”. Phe Mafia Berkeley và
phe dân tộc chủ nghĩa đều cùng đánh lại một phe thứ ba: hội “thân hữu”. Hội
những doanh nhân này thúc ép tổng thống ban cho họ những đặc ân, chẳng hạn
như độc quyền thương mại và sản xuất, làm méo mó thị trường, làm suy yếu sức
cạnh tranh của Indonesia và đi ngược lại những nỗ lực mở cửa nền kinh tế của
“Nhóm Mafia Berkeley”.
“Tất cả mọi người đều lao vào đánh nhau để tranh
giành sự chú ý của Suharto,” Salim giải thích. “Đó là cuộc chiến tư tưởng.”
Đôi khi, “Nhóm Mafia Berkeley” làm chủ được suy nghĩ của Suharto và nền
kinh tế tiến tới thương trường quốc tế; lúc khác, “Nhóm Mafia Berkeley” thua
cuộc trước những nhóm đối thủ khác và chính sách kinh tế chuyển hướng.
Không giống như Đặng Tiểu Bình, Suharto chưa bao giờ sử dụng quyền lực
chính trị của mình để áp đặt một sự chỉ huy rõ ràng lên những phe phái cãi nhau
ầm ĩ này. Cuộc xung đột liên miên ở một mức độ nào đó đã nuôi dưỡng tâm lý
đối mặt với khó khăn lâu dài của “Nhóm Mafia Berkeley”, một niềm tin cho
rằng họ đang sống mái cho một cuộc chiến một mất một còn vì tương lai của
dân tộc. “Có rất nhiều người chống lại chúng tôi,” Wardhana nói.
Câu chuyện của Indonesia, theo một cách nào đó, cũng đi tới hướng hạ bệ học
thuyết cho rằng sự lãnh đạo độc tài là điều kiện tiên quyết then chốt đối với sự
phát triển nhanh chóng. Dù sự kìm kẹp về quyền lực chính trị của Suharto cho
phép chính phủ đưa ra những quyết định nhanh gọn giống như trong trường hợp
Hàn Quốc của Park Chung Hee và Đài Loan của Tưởng Giới Thạch nhưng
Suharto thường không có những quyết định đúng đắn. Ông chỉ có một khái
niệm mơ hồ về phương hướng của chính sách kinh tế và sẽ chọn lựa, quyết định
giữa nhiều thực đơn chính sách ganh đua với nhau giống như chất đầy thức ăn
vào một cái đĩa trong một bữa ăn với nhiều món nóng, nguội khác nhau phục vụ
trong một quán ăn. Thế nhưng, vì Suharto là một người chuyên quyền nên
chẳng có cách nào triển khai chính sách mà không có ông. Kết quả là thường
xuyên xuất hiện những chính sách trái ngược nhau hay những sự thay đổi kịch
tính trong định hướng chính sách, hoàn toàn dựa vào sự thiên vị của Suharto đối
với phe cánh này hơn phe cánh kia. Các chủ đề tư tưởng khác nhau vốn đem lại
sự phát triển cho châu Á, từ những sáng kiến nhà nước lãnh đạo, sự định hướng
đi theo thế lực của thị trường và toàn cầu hóa cho đến mối quan hệ cá nhân giữa